Những hình thức Sanh và Tử

SHARE:


Đức Phật và Phật Pháp
Đại đức Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Nguyên tác: “The Buddha and His Teachings“,
Buddhist Publication Society, Sri Lanka

1. Lời Tri Ân 29. Do đâu tin có Tái Sanh?
2. Lời Tựa 30. Thập Nhị Nhân Duyên
3. Tiểu sử Đại đức Narada (I) 31. Những hình thức Sanh và Tử
4. Tiểu sử Đại đức Narada (II) 32. Những Cảnh Giới
5. Lời Mở Đầu 33. Hiện tượng Tái Sanh
6. Phần I – Đức Phật Từ Đản sanh đến Xuất gia 34. Cái gì đi tái sanh?
7. Chiến đấu để thành đạt Đạo Quả 35. Trách nhiệm tinh thần
8. Đạo Quả Phật 36. Nghiệp chuyển lên và Nghiệp chuyển xuống
9. Sau khi Thành Đạo 37. Nghiệp báo và Tái sanh với người phương Tây
10. Cung thỉnh Đức Phật truyền bá Giáo Pháp 38. Niết Bàn
11. Kinh Chuyển Pháp Luân – Bài Pháp đầu tiên 39. Đặc tánh của Niết Bàn
12. Truyền bá Giáo Pháp 40. Con đường Niết Bàn (I)
13. Đức Phật và Thân quyến (I) 41. Con đường Niết Bàn (II)
14. Đức Phật và Thân Quyến (II) 42. Chướng ngại tinh thần
15. Những người Chống Đối và những vị Đại Thí Chủ 43. Con Đường Niết Bàn (III)
16. Những Đại Thí Chủ trong hàng vua chúa 44. Phẩm hạnh A-la-hán
17. Con Đường Hoằng Pháp 45. Lý tưởng của Bồ Tát, hay Bồ Tát Đạo
18. Đời sống hằng ngày của Đức Phật 46. Ba-la-mật
19. Đức Phật nhập Đại Niết Bàn 47. Tứ Vô Lượng Tâm
20. Phần II – Phật Pháp Phật Giáo là gì? 48. Tám Pháp Thế Gian
21. Vài đặc điểm của Phật Giáo 49. Những vấn đề của kiếp nhân sinh
22. Bốn Chân Lý Thâm Diệu hay Tứ Diệu Đế 50. Phụ bản Kinh Hạnh Phúc
23. Nghiệp Báo 51. Kinh Suy Đồi
24. Nghiệp là gì? 52. Kinh Cùng Đinh
25. Sự báo ứng của Nghiệp 53. Kinh Tam Bảo
26. Tính chất của Nghiệp 54. Kinh Từ Bi
27. Khởi thủy của đời sống là gì? 55. Kinh Tứ Niệm Xứ
28. Đức Phật và vấn đề Thần Linh Tạo Hóa 56. Vài nét về Dịch giả, Cư sĩ Phạm Kim Khánh

Những hình thức Sanh và Tử

“Mãi mãi hạng thiển trí tìm đi tái sanh,
Mãi mãi sanh đến, rồi tử đến,
Mãi mãi người khác đưa ta đến mồ.” — Tạp A Hàm

Pháp Thập Nhị Nhân Duyên dùng những danh từ kỹ thuật tế nhị để diễn tả tiến trình sanh tử và dạy rằng hiện tượng chết phát sanh do một trong bốn nguyên nhân sau đây:

  1. Sự kiệt lực của Nghiệp Tái Tạo (kammakkhaya)

Người Phật tử tin rằng thông thường, các tư tưởng, tác ý, hay ý muốn thật mạnh lúc sinh tiền, sẽ hồi sinh với một năng lục mạnh mẽ trong giờ phút lâm chung. Chính tư tưởng cuối cùng ấy tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp đến. Khi năng lực của Nghiệp Tái Tạo (janaka) đã kiệt thì những sinh hoạt của cơ thể mà luồng sinh lực nằm trong đó cũng chấm dứt. Có khi chấm dứt sớm hơn tuổi thọ thông thường trong cảnh giới ấy. Trong trường hợp nầy thường xuyên xảy đến cho chúng sanh trong cảnh khổ (apaya) nhưng cũng có thể xảy ra trong những cảnh giới khác.

  1. Hết tuổi thọ (ayukkhaya)

Tuổi thọ có thể dài hay ngắn tùy vào cảnh giới. Những cái chết tự nhiên như chết già, chết vì hết tuổi thọ, thuộc về loại nầy.

Có những cảnh giới trong ấy kiếp sống dài hơn ở những cảnh khác. Trong cảnh giới của mình, nếu tuổi thọ đã đến mức tối đa, kiếp đã mãn, thì dầu nghiệp lực còn mạnh cũng phải chết. Tuy nhiên, nếu năng lực của Nghiệp Tái Tạo thật mạnh, nghiệp lực có thể tự hồi sanh, tạo “Sắc” mới trong cảnh giới ấy hay trong một cảnh giới cao hơn, như trường hợp chư Thiên.

  1. Nghiệp Tái Tạo và tuổi thọ đồng thời chấm dứt cùng một lúc (ubhayakkhaya).
  2. Một nghiệp lực ngược chiều, thật mạnh, ngăn chận, làm bế tắc thình lình luồng trôi chảy của Nghiệp Tái Tạo (upacchedaka kamma).

Những cái chết đột ngột, bất đắc kỳ tử, và những trường hợp yểu tử đều do nhân nầy.

Một năng lực thật mạnh có thể đổi chiều hướng một mũi tên bay, hay ngăn chặn lằn bay, làm cho mũi tên rơi xuống đất. Cũng dường thế ấy, một nghiệp lực thật mạnh trong quá khứ có thể đánh tan tiến trình tư tưởng cuối cùng và tiêu diệt kiếp sống tâm linh của một chúng sanh. Cái chết của Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) là do nghiệp tiêu diệt mà ông đã tạo.

Ba trường hợp đầu tiên được gọi chung là “chết đúng thì” (kala marana). Trường hợp thứ tư là “chết không đúng thì” (akala marana).

Như ngọn đèn dầu có thể tắt vì bốn nguyên nhân:

  1. Tim lụn.
    2. Dầu cạn.
    3. Tim lụn và dầu cạn cùng lúc, và
    4. Những nguyên nhân khác từ bên ngoài như một cơn gió mạnh thổi qua.

Theo Phật Giáo cũng có bốn lối sanh là:

  1. Noãn sanh (andaja), sanh từ trong trứng.
    2. Bào sanh (jalabuja), sanh từ trong bào thai.
    3. Thấp sanh (samsedaja), sanh từ chổ ẩm thấp.
    4. Hóa sanh (opapatika), đột nhiên sanh ra.

Tất cả chúng sanh đều được sanh ra theo một trong bốn lối ấy.

Chim và những loài bò sát có trứng thuộc loại noãn sanh. Người, một vài cảnh Trời trên quả địa cầu, và loài thú thuộc loại thai sanh, hay bào sanh. Có những mầm giống được sanh ra và trưởng thành từ nơi ẩm thấp, như vài loại côn trùng, thuộc loại thấp sanh. Những chúng sanh thuộc loại hóa sanh thường là vô hình đối với con người, tức mắt người không thể thấy. Do nghiệp quá khứ, các chúng sanh ấy bỗng nhiên xuất hiện, khởi phải qua một giai đoạn phôi thai nào. Ngạ quỉ (peta), chư Thiên (deva), và chư Phạm Thiên (Brahma) đều thuộc loài hóa sanh

SHARE:

Trả lời