GIỚI THIỆU

SHARE:


NHỮNG LỐI VÀO THỰC TẠI TỐI HẬU
Dudjom Rinpoche – Việt dịch: Nguyễn An Cư – Thiện Tri Thức 2004

1. Giới Thiệu
2. PHẬT QUẢ KHÔNG THIỀN ĐỊNH
3. TÁNH KHÔNG CỦA MỌI SỰ VẬT
4. THỀ NHẬP VÀO NHƯ HUYỄN
5. BẢY ĐẶC TÍNH NHƯ KIM CƯƠNG CỦA HƯ KHÔNG
6. THỂ NHẬP TÍNH CÁCH NHƯ MỘNG CỦA TÁNH KHÔNG
7. THẦN LINH VÀ MA QỦY CHỈ LÀ SỰ HÓA HIỆN CỦA TÂM THỨC
8. THỰC TẠI VỐN LÌA CÁC HÌNH TƯỚNG
9. CHUYỂN SANH TỬ VÀ NIẾT BÀN VỀ CÙNG MỘT NỀN TẢNG
10. NHỮNG HÌNH TƯỚNG XUẤT HIỆN NHƯ THẾ NÀO?
11. KHÔNG – VÔ TƯỚNG – VÔ NGUYỆN
12. TÁNH GIÁC VÀ NHỮNG BIỂU LỘ CỦA NÓ
13. LÝ DO THỰC HÀNH QUÁN TƯỞNG BỔN TÔN VÀ CÁC CỎI TỊNH ĐỘ
14. NHỮNG DANH HIỆU CỦA THỰC TẠI TỐI HẬU
15. CON ĐƯỜNG ĐẠI TOÀN THIỆN
16. PHÂN BIỆT TRÍ VÀ THỨC
17. LỜI BẠT CỦA ĐỨC NGÀI Dudjom Rinpoche
18. Phân Tích và Phác Họa Cơ Cấu của Đức Ngài Dudjom Rinpoche

Dudjom Lingpa

GIỚI THIỆU 
 của Chagdud Tulku 
Pháp thân, thực thể bao la của sự thanh tịnh nguyên sơ và không có thời gian ;
Báo thân, thực thể toàn bộ bao la của một phô diễn không dứt của những bổn tôn hòa bình và hung nộ.
Hóa thân, thực thể bao la điều phục chúng sanh theo cách cần thiết :
Con lễ lạy với lòng sùng mộ Dudjom Lingpa, bậc điều phục cho chúng sanh.
Hỡi đấng bảo vệ, dù những phẩm tính của ngài không thể diễn tả đầy đủ,
Con sẽ viết ngắn gọn gương mẫu đời ngài để mở cửa cho những người trong chúng con tâm trí nhỏ nhưng với lòng tin
Đi vào sự rạng rỡ của lời ngài tuyệt diệu, cam lồ của lời khuyên tâm linh sâu xa.
Những bổn tôn và những vị thầy, xin ban phước lành cho nhiệm vụ của con !

Trong quá khứ lâu xa, để đem đến lợi lạc cho giáo lý và chúng sanh, vị thầy pháp thân vĩ đại Vajradhara biểu hiện trong những tri giác của những người cần được điều phục, trong hình thức một vị vua của những thiền giả tên là Nũdan Dorje. Vị thiền giả thần lực này đã ban quán đảnh như một vị trị vì tâm linh của ba cõi và đã cầu nguyện với ý nguyện lớn lao để làm lợi lạc cho chúng sanh, ban quán đảnh cho một ngàn vị Phật tương lai của kiếp này. Ngài cầu nguyện, “Cho đến khi những giáo lý của một ngàn vị Phật của kiếp may mắn này chấm dứt, nguyện những hóa thân lưu xuất của tôi sẽ xuất hiện không ngừng, hoàn thành lợi lạc bao la cho những chúng sanh cần được điều phục !”

Thần lực của lời nguyện này khiến hàng trăm hóa thân lưu xuất của ngài làm lợi lạc cho chúng sanh bất cứ nơi nào hoàn cảnh đúng hợp. Trong những hóa thân lưu xuất đó có Thanh Văn Xá Lợi Phất trong thời của đạo sư của chúng ta là Phật Thích Ca Mâu Ni, và tiếp theo là bậc nắm giữ tánh giác vốn sẵn Hungchhenkara, dịch giả Drogban Khye‘uchung Lotsa, Dampa Desheg, người sáng lập tu viện Kat‘hog, Kharnagpa của thị tộc Grum và Hepa Chhõ-jung, cũng như Dudjom Dorje, Duddul Rolpatzal và nhiều thân lưu xuất khác bảo đảm cho hạnh phúc của chúng sanh.

Đặc biệt là đạo sư Padmakara, hiểu biết ngài bao trùm ba thời, đã thúc dục một hóa thân xuất hiện như là sứ giả của ngài, một bậc bảo vệ cho chúng sanh trong thời tâm linh suy đồi. Theo lệnh của ngài, Dudjom Lingpa đã được thành thai giữa những dấu hiệu kỳ diệu trong lòng một phụ nữ thị tộc họ Nub. Bà mẹ ngài cảm thấy hạnh phúc về thể chất và tinh thần trong thời kỳ mang thai ngài, và có những điềm tốt khi ngài được sanh ra không khó khăn trong một lều nhỏ. Toàn bộ chỗ ấy được phủ đầy những cầu vồng và điểm ánh sáng, những mùi hương lạ tỏa ra và một cơn mưa hoa rơi xuống. Năm 1835, năm con cừu, ngày mồng mười tháng giêng, lễ kỷ niệm sự phô bày những phép lạ của đức Phật, thân tướng của ngài với những tướng chính và phụ ra đời. Mọi người quanh vùng nói rằng một hiện thân đã được sanh ra. Nhiều bậc thánh như Lama Jigmed ca tụng em bé như một hóa thân cao cả không gì sánh được và tiên tri rằng em bé đó sẽ hoàn thành những việc lớn lao cho người khác.

Trong ba năm đầu tiên của đời mình, ngài thấy những chúng hội dakini và những thần bảo hộ giữ gìn trông coi ngài với ca hát, nhảy múa và chơi nhạc. Ngài cũng thấy nhiều trận đánh của những quân ma gây trở ngại cho những thần có nhiệm vụ bảo vệ ngài. Những người khác đôi khi cũng thấy và nghe được điều xảy ra.

Về sau, Dudjom Lingpa kể lại một điều xảy ra lúc ngài ba tuổi : “Tôi thấy mẹ tôi sửa soạn đi ra ngoài để nhặt những củ ăn được và bà cột tôi vào sợi dây cột lều và bỏ tôi lại. Tôi bắt đầu khóc và muốn ngất đi khi tôi thấy một dakini màu trắng, bà nói với tôi, “Chúng ta hãy đi tới mẹ.” Với câu nói đó, tôi thấy đầy đủ thực thể của một cõi tịnh độ tỏa ánh sáng màu ngọc bích, nhiều hệ thế giới ở phương bắc. Ở trung tâm của cõi này là một vị Phật, một bậc điều ngự thành tựu và siêu việt có danh hiệu là Don Mizawai Gyalpo (Vua Không Ngần Ngại), có vô số bồ tát bao quanh. Tôi lễ lạy các vị với lòng sùng mộ và nói :

Cung kính đảnh lễ !

Đại diện cao cả của tất cả những bộ Phật và những mạn đà la

Con đảnh lễ ngài, hỡi bậc chiến thắng mỹ mãn và siêu việt !

Xin hãy giải thoát cho con và những người khác, mọi chúng sanh trôi dạt trong vòng sanh tử –

Xin giải thoát chúng con khỏi biển cả hữu vi và truyền cho chúng con cảm hứng.

“Khi tôi đã cầu nguyện bằng những lời này, những tia sáng năm màu tỏa ra từ tim của bậc chiến thắng và tan vào tim tôi, ngay lúc đó tôi kinh nghiệm tánh giác nguyên sơ của an lạc và tánh Không không thể tách lìa. Từ miệng của Như Lai đến với tôi những lời nói, ‘Con của ta, ta ca ngợi con như là nhiếp chính của ta. Ta ban cho con những quán đảnh của lối tiếp cận mật chú của Kim Cương thừa. Con đã đạt được những thành tựu (siddhi) bình thường và cao cả.’ Nói xong, ngài đặt một cái tráp pha lê trong hai tay tôi. Trong đó có những âm Om Ah Hung, màu trắng, đỏ và xanh theo thứ tự. Ngài nói, ‘Những cái này giống như một món thừa kế từ sự giàu có của người cha tâm linh của con, thế nên hãy nuốt chúng không để lại gì.’ Khi tôi nuốt chúng, nhiều chủ đề của Phật pháp và những trí nhớ sống động về những đời trước trở nên rõ ràng với tôi, cũng như sự nhớ lại những giáo lý tôi đã nghe, tư duy và thiền định về chúng.

“Vào một dịp khác một dakini đưa tôi đến Oddiyana, cõi của những dakini, nơi đó tôi gặp Vajravarahi, vị cao nhất trong những dakini. Từ tay ngài phát ra bốn âm sinh lực của những dakini (Ha Ri Ni Sa), và tôi mặc một áo giáp bảo vệ làm bằng những tia sáng. Lúc đó, từ đầu vú phải của ngài một âm Bam phóng đến và tan vào tim tôi và khiến tôi chiến thắng mọi chướng ngại. Tôi đạt được sự làm chủ những năng lực tâm linh và những khả năng thần thông. Những dakini để lộ mặt cho tôi thấy, ban cho tôi cam lồ từ chén sọ của các vị và nói những lời tiên tri về sự cần thiết phải nương dựa vào những vị thầy tâm linh của tôi. Tất cả cùng một lúc, hàng trăm cánh cửa mở ra để được nghe và tư duy về những giáo lý.”

Quán Thế Âm, bồ tát cao cả của lòng từ, giữ gìn cho Dudjom Lingpa khi làm một bạn đồng hành, mang hình thức một cậu bé da sáng, đẹp trai và trẻ trung. Văn Thù Sư Lợi, Sư Tử của Ngữ, chăm sóc cho ngài, khiến cho năng lực của trí huệ siêu việt cháy sáng trong ngài. Thêm nữa, ngài được chăm sóc và ban phước bởi những hiện thân của tánh giác nguyên sơ như là những bổn tôn và đức thầy : Đấng của những Bí Mật Vajrapani, đại thành tựu giả Saraha, tám vị nắm giữ vĩ đại tánh giác vốn sẵn, Longchen Rabjam, Zurchhung Sheyrab Dragpa và những vị khác.

Ngài du hành đến Núi Vinh Quang trên tiểu lục địa Ngayab. Dù ngài chỉ sống một ngày theo thời gian của con người, đối với ngài, ngài đã dừng lại đó mười hai năm. Từ Orgyan vĩ đại, ngài đã nhận những giáo huấn tâm linh làm chín muồi và giải thoát cho ngài. Bậc thầy vĩ đại này đã giao Dudjom Lingpa làm người nhiếp chính của mình như là bậc bảo vệ cho chúng sanh trong những thời suy thoái tâm linh. Trong mỗi nguyên tử Dudjom Lingpa nhìn thấy những đại dương của những hiện thân giác ngộ và những tịnh độ, và từ mỗi hiện thân giác ngộ này những hóa thân lưu xuất vô cùng của ngài nghe những giáo lý mà sự tưởng tượng bình thường phải rất khó khăn mới hiểu được.

Với sự khởi lên của những nghiệp lành trong những đời trước, Dudjom Lingpa đạt được trí huệ hoàn toàn, khiến những ai tìm kiếm những chỉ bày để học hỏi và thành tựu tâm linh đều tôn kính sùng mộ ngài. Những chúng hội dakini, như Yeshe Tsogyal, tiên tri những biến cố xảy ra cho ngài và chăm sóc ngài như một đứa con. Những vị bảo vệ đã thệ nguyện, những vị giữ gìn cho Phật pháp và những vị bảo vệ những giáo lý kho tàng che dấu đều theo ngài như cái bóng và theo lệnh của ngài.

Ngài không có sự khao khát những đam mê tầm thường ; hơn nữa, ngài thoát khỏi mọi khuyết điểm của bám luyến do theo con đường tham muốn bình thường. Ngài là một đại hành giả theo nghĩa chân thật của từ này, người duy trì những nguyên tắc cao nhất của hạnh thanh tịnh. Ngài bị tác động sâu xa bởi từ bi, và đã trau dồi Bồ đề tâm cao cả, động cơ vị tha làm lợi lạc cho người khác, trải qua rất nhiều kiếp đến độ những ai có sự nối kết với vị đại bồ tát này, người con của những bậc chiến thắng này, đều tìm thấy mục tiêu trong mối nối kết ấy.

Trong sự theo đuổi phương tiện thiện xảo tối thượng của con đường ngắn, kim cương thừa, bậc thiền giả vĩ đại nhất này đẩy đến giới hạn xa nhất của sự chứng ngộ sanh từ giai đoạn phát triển, đến độ ngài tri giác những sắc tướng và những âm thanh là trạng thái thanh tịnh, một mạn đà la của tánh giác nguyên sơ. Tánh giác nguyên sơ trở nên rõ ràng với ngài như là phúc lạc cháy trong thân ngài, sức mạnh trong lời ngài và sự chứng ngộ trong tâm ngài. Đàn ông và những daka, phụ nữ và những dakini, thức ăn và tài sản đều gom tụ quanh ngài như mây. Ngài là một vị thầy vĩ đại của sự chuyển hóa, thi hành hoạt động cho những mục đích đáng ao ước, chứng tỏ sự làm chủ với bốn loại hoạt động và tám hoàn thành tâm linh, như đi qua không gian hay vật chất đặc.

Giai đoạn thành tựu bao gồm nỗ lực này là một lối tiếp cận kỳ diệu. Qua những phương tiện thiện xảo mạnh mẽ này, vị anh hùng tâm linh vĩ đại hoàn toàn điều khiển được những năng lực vi tế chuyển động trong kinh mạch roma và kyangma, những kinh mạch hai bên của phương tiện thiện xảo và trí huệ siêu việt, để cho những “lối đi của mặt trời và mặt trăng” này được đưa vào không gian căn bản của dhuti, kinh mạch trung ương. Với việc này, ngài chiến thắng đối với những tạo tác máy móc của mê lầm được sanh ra từ những năng lực vi tế bất tịnh của nghiệp. Được kích thích bởi năng lực vi tế của tánh giác tự hữu, sự vận hành của hơi nóng thiêng liêng chandali chuyển hóa ba kinh mạch và những luân xa chakra của ngài, làm trống và đốt cháy tiêu những khuôn khổ tư tưởng của bám chấp nhị nguyên trong cõi giới bao la của trí huệ siêu việt bất nhị. Sự chói sáng của điều này thấm nhiễm ngài với mười sáu cấp độ của niềm vui – tiến trình thay đổi ở bề ngoài của cái thực sự là cấp độ tối cao không thay đổi của phương tiện thiện xảo. Điều này đưa đến lạc tối thượng và sáng rỡ của tính bình đẳng, và lúc đó ngài có một cách thức của hạnh, cái này đặt những hiện tượng hình tướng vốn tự biểu lộ dưới thần lực của ngài và làm tràn ngập những hình tướng bên ngoài với sự vinh hiển của chứng ngộ của ngài. Hạnh của ngài trở thành một sự khiêu vũ qua đó ngài khơi gợi, bằng những cách rất trực tiếp, phương diện lạc phúc tối thượng của tánh giác nguyên sơ trong bất kỳ ai có nghiệp thích hợp và phước đức lớn.

Lối tiếp cận đặc biệt nhất, con đường bí mật nhất của mọi con đường bí mật, là con đường nhanh chóng của quang minh (hay tịnh quang) triệt suốt, chót đỉnh của kim cương. Không lấm nhiễm bởi những nhận định tốt hay xấu, tánh giác nguyên sơ là hợp nhất bổn nguyên của tánh giác vốn sẵn và tánh Không, phi thời gian trong sự thanh tịnh bổn nguyên của nó. Đây là bản tánh vốn không bị điều kiện hóa của tự tâm, chính là Bồ đề tâm của Samantabhadra(Phổ Hiền), không chút tạo tác. Điểm then chốt bí mật này của cái thấy hay tri kiến trở nên hoàn toàn rõ ràng với Dudjom Lingpa.

Về phần tiến trình thiền định không gắng sức, bản tánh của tất cả mọi hiện tượng là rốt ráo không nỗ lực như vậy, thoát khỏi mọi cảm thức “cái này phải được làm” hay “cái này được làm như thế nào”. Vượt khỏi những quan niệm bình thường về thiền định hay không thiền định, nó là trạng thái tự nhiên, không thi thiết giả tạo. Không có lớp che ám của sự không biết (vô minh) tánh giác nguyên sơ, nó là trong suốt và trùm khắp. Không có những biên giới chật hẹp của hy vọng và sợ hãi, nó là một cái rỗng rang thong dong. “Yoga của hư không“ là yoga về pháp giới bao la tối thượng này của hiện thể trong đó chứng ngộ và giải thoát đồng thời, trong đó không có gì là thiền định, nhưng cũng không có phóng dật nào. Sự giác ngộ bên trong là sự sáng chói không dứt bên trong của hiện thể con người – bản tánh cố hữu của tất cả những phẩm tính tốt đẹp của các thân và tánh giác nguyên sơ, hiện diện tự nhiên không cố gắng. Bằng cách làm chủ cái này bằng những điểm then chốt của những tư thế của thân và những kỹ thuật nhìn ngắm trên con đường “vượt qua điểm đỉnh” (thod-gal), Dudjom Lingpa gặp gỡ những hình tướng xuất hiện trong thị kiến của thật tánh của thực tại – nghĩa là, của hư không căn bản (ying), những quả cầu ánh sáng (thig-le) và sự sáng chói của tánh giác nguyên sơ (rig-dang). Một khi ngài đã đạt được tri giác trực tiếp ba cái này, chúng được nâng cao chất lượng và đạt đến sự biểu lộ trọn vẹn nhất như là những thị kiến của con đường này, khai mở trong một cái nháy mắt, như một đại dương những phẩm tính diệu kỳ khởi lên như những hình thức của những bổn tôn hòa bình và hung nộ.

Những dakini của hư không căn bản của tánh giác nguyên sơ ban xuống cho ngài kho tàng sâu xa và bí mật tối thượng của các vị, và ca tụng bằng những tiên tri về những mục tiêu cao cả và rộng lớn mà ngài sẽ làm trong tương lai. Các vị cổ vũ ngài mở cánh cửa vào kho tàng của những bí mật của dakini. Trong thị kiến về tánh giác nguyên sơ vô trụ, ngài trầm mình trong những thị kiến về toàn bộ vũ trụ như là một thực thể bao la của sự thanh tịnh. Những kho tàng đã được dấu kín của tâm giác ngộ vô tận tuôn ra như một điều tất nhiên từ pháp giới bao la của ý nguyện giác ngộ của ngài. Trong việc giải tỏa niêm ấn làm tin của những dakini và phát lộ những kho tàng được dấu kín sâu xa, Dudjom Lingpa là một người phát hiện cao cả của những kho tàng như thế, một quân vương vũ trụ vĩ đại trong những vị thầy. Ngài truyền bá một kho tàng những giáo lý châu ngọc, được cất dấu thành một buổi tiệc lớn cho những người học may mắn cần được điều phục để họ thưởng thức – những giáo lý về guruyoga, Đại Toàn Thiện, Bồ tát Quán Thế Âm, những giai đoạn phát triển và thành tựu, những thực hành hàng đầu và những kỹ thuật phụ, cũng như những hoạt động nghi lễ nhỏ hơn cho vô số mục tiêu.

Có những người trong những thời đại suy thoái tâm linh này tỏ ra khó khăn để điều phục bằng những lối tiếp cận tâm linh có cố gắng. Những tiên tri kim cương tán dương sự cần thiết điều phục họ bằng lối tiếp cận không cố gắng của ati, Đại Toàn Thiện, tinh túy của bí mật của chân lý xác quyết. Phù hợp với những tiên tri này, vì lợi lạc cho những người may mắn cần được điều phục, Dudjom Lingpa đã thắp lên ngọn đèn những giáo lý của lối tiếp cận chót đỉnh của những bí mật tối thượng.

Hình tướng cao cả và hấp dẫn của ngài, đem lại giải thoát ngay trên cái nhìn, được mặc áo trắng và những lọn tóc dài trĩu xuống. Nó có thể tùy ý đeo mang những vật tầm thường. Nơi tai ngài đeo những vòng lớn của cái tù và.

Ngài có thể cứu sống lại những người bị giết. Ánh sáng cầu vồng, mưa hoa và mùi hương thơm khi ngài cử hành lễ quán đảnh, những nghi lễ tập trung và những tiệc cúng dường. Những dấu hiệu của thành tựu này được những người trực tiếp hiện diện chứng kiến. Một phần lợi lạc đến từ những bài ca kim cương du dương về giáo lý và lời khuyên tuôn chảy không dứt từ cổ họng vàng của ngài, và nghe chúng sẽ đưa đến giải thoát. Ngài giải thoát cho dòng tâm thức của các học trò vào lúc ngài tập trung Bồ đề tâm của ngài vào họ, thường kèm theo những lời sắc bén hay những cú đánh.

Bằng tám con người hiện thân tiếp tục dòng giống của ngài, mười ba đứa con tuyệt hảo của lòng đạt đến thân cầu vồng, khoảng một ngàn người học trò đạt được cấp độ nắm giữ tánh giác vốn sẵn và những người khác nữa, ngài đã lập một dòng những thành tựu giả. Trong những giấc mộng của ngài, một cậu bé chư thiên tên là Dung-gi Zurphud và một phi nhân tên là Zurme, đã từng là em của ngài, đã tiết lộ những biểu tượng của ngài và tiên tri rằng sự lợi lạc cho những chúng sanh từ những kho tàng của ngài sẽ đi đến phương Tây, họ nói, “Những thành phố con người ở phương Tây có những người đáng được ông điều phục.” Họ cũng nói, “Âm vang của cái tù và ở phương Tây là một dấu hiệu danh tiếng của ông tăng lên mạnh mẽ. Những tia mặt trời chiếu sáng trong những cái hố trên mặt đất tượng trưng cho những người ông sẽ điều phục.” Đúng như những tiên tri này, chúng ta đã thấy những hoạt động liên hệ với những kho tàng của Dudjom Lingpa đã lan tỏa và nở hoa trong những vùng xa, đặc biệt là bán cầu Tây.

Thật khó diễn tả chính xác ý nghĩa của những bí mật không thể quan niệm nổi của ngữ giác ngộ trong những kho tàng của một vua Phật pháp như nhà phát giác kho tàng vĩ đại Dudjom Lingpa. Tuy nhiên, bản dịch này được một dịch giả thông thạo tiếng Anh và tiếng Tây Tạng đảm nhiệm, đó là nhờ những ý nguyện và nghiệp trước kia. Ông tên là Chõkyi Nyima trong tiếng Tây Tạng, và Richard Barron trong tiếng mẹ đẻ Tây phương Canada và Hoa Kỳ. Bản dịch tinh xảo này được biên tập cẩn thận lại nhiều lần cho thêm chính xác và để bảo đảm sự trong sáng và hiểu được. Chính tôi cũng góp phần vào tiến trình dịch thuật và biên tập toàn bộ bằng cách cúng dường những phục vụ của riêng tôi với sự kính trọng chân thành những lời dạy này.

Như Dudjom Rinpoche nói trong Lời Bạt, những lời của bản văn này là “xá lợi của pháp thân”. Chúng có thể được đọc bởi người đã một lần đích thân nhận những giáo lý này từ một vị lama giữ dòng này ; cho đến lúc đó bản văn nên được được giữ như một vật để tôn thờ trên bàn thờ. Nếu có được hoàn cảnh này, không nghi ngờ gì người ta sẽ vượt lên chiến thắng trong trận chiến với những chướng ngại và những nghịch cảnh, và những hoàn cảnh giúp đỡ sẽ đem lại lợi lạc tức thời trong đời này và tương lai.

Dù tấm gương cuộc đời của bậc bảo vệ này khó mà diễn tả cho trọn vẹn,

Tôi đã nói ngắn gọn về nó với một thái độ cao cả.

Qua sức mạnh của việc làm này, nguyện bậc che chở hướng dẫn tôi trong mọi cuộc đời,

Và nguyện khả năng làm lợi lạc cho chúng sanh của tôi cũng lớn lao như của ngài, bậc che chở của tôi !

Từ những chiều sâu vô tận của tâm giác ngộ của ngài, bí mật và sâu xa,

Phát ra sự chỉ dạy sâu thẳm này, Phật Quả Không Thiền Định, làm hiển lộ rõ ràng khuôn mặt thật của chính mình như là Đại Toàn Thiện, tức là bản tánh vốn có.

Với động cơ vị tha, những thí chủ đã đỡ đầu công trình này, một dịch giả đã thông thạo hai thứ tiếng

đã giới thiệu bản dịch và những người biên tập đã tẩy sạch những sai sót.

Cho tất cả chúng sanh trong ba cõi, và nhất là cho những ai biểu lộ sự tôn kính với giáo lý này,

nguyện những méo mó của ba che chướng được tiêu tan trong hư không căn bản của những hiện tượng,

và nguyện bản tánh nền tảng của họ – Bồ đề tâm của ba thân – trở nên rõ ràng !

****

 

SHARE:

Trả lời