CON ĐƯỜNG ĐẠI TOÀN THIỆN

SHARE:


NHỮNG LỐI VÀO THỰC TẠI TỐI HẬU
Dudjom Rinpoche – Việt dịch: Nguyễn An Cư – Thiện Tri Thức 2004

1. Giới Thiệu
2. PHẬT QUẢ KHÔNG THIỀN ĐỊNH
3. TÁNH KHÔNG CỦA MỌI SỰ VẬT
4. THỀ NHẬP VÀO NHƯ HUYỄN
5. BẢY ĐẶC TÍNH NHƯ KIM CƯƠNG CỦA HƯ KHÔNG
6. THỂ NHẬP TÍNH CÁCH NHƯ MỘNG CỦA TÁNH KHÔNG
7. THẦN LINH VÀ MA QỦY CHỈ LÀ SỰ HÓA HIỆN CỦA TÂM THỨC
8. THỰC TẠI VỐN LÌA CÁC HÌNH TƯỚNG
9. CHUYỂN SANH TỬ VÀ NIẾT BÀN VỀ CÙNG MỘT NỀN TẢNG
10. NHỮNG HÌNH TƯỚNG XUẤT HIỆN NHƯ THẾ NÀO?
11. KHÔNG – VÔ TƯỚNG – VÔ NGUYỆN
12. TÁNH GIÁC VÀ NHỮNG BIỂU LỘ CỦA NÓ
13. LÝ DO THỰC HÀNH QUÁN TƯỞNG BỔN TÔN VÀ CÁC CỎI TỊNH ĐỘ
14. NHỮNG DANH HIỆU CỦA THỰC TẠI TỐI HẬU
15. CON ĐƯỜNG ĐẠI TOÀN THIỆN
16. PHÂN BIỆT TRÍ VÀ THỨC
17. LỜI BẠT CỦA ĐỨC NGÀI Dudjom Rinpoche
18. Phân Tích và Phác Họa Cơ Cấu của Đức Ngài Dudjom Rinpoche

Đang chờ chỉnh sửa

Shri Simha

( Vidyadhara )

Về sau , trong thị kiến khi tôi gặp vua của các vị nắm giữ hiểu biết ( Vidyadhara ) – Shri Simha . Tôi hỏi ngài : “ Hỡi bậc thầy tôn kính , con xin ngài chỉ cho con con đường đại Toàn Thiện là gì ? ” .Trước sự cầu xin của tôi, ngài ban cho sự trả lời sau đây :

“ Đại Toàn Thiện là nền tảng tối thượng chung của Sinh tử và Niết bàn – Hư không căn bản tối thượng .Trong đó có ba cách thái :Sinh tử , Niết bàn, và Con đườngđều toàn thiện và viên mãn . Hiểu được bản tánh này như nó thực sự là . . . Đây là cái thấy ( Tri kiến hay Kiến giải ) .Đạt được sự thông thạo trong nền tảng vô thượng bổn nguyên nguyên sơ và không có thời gian . Bằng sự tự giác và mở rộng trong thực trạng hiện tiền của chính mình là : Thiền định tự do thoát khỏi mọi khuôn khổ quy chiếu cố định . 

Giống như một giọt nước hòa với đại dương và trở thành đại dương . Nhưng không làm biến chất đại dương . Hay hư không trong bình hòa với hư không bên ngoài khắp suốt không đổi thay . Nền tảng hiện thể hay tâm bình thường .Vốn không trong ngoài nhưng vì phân biệt nên chia thành trong và ngoài . Tất cả chỉ do sự vọng tưởng thành ra tự ngã và tự tánh . 

Cũng như nước , hiện hữu trong trạng thái trôi chảy tự do tự nhiên .Trở nên đông cứng thành băng dưới ảnh hưởng của sự lạnh .Như nền tảng hiện thể hiện hữu trong một trạng thái tự do tự nhiên .Nhưng quang phổ của vòng Sinh tử được thiết lập do vọng tưởng tiềm ẩn về một tự ngã cá nhân và tự tánh của những hiện tượng .

Hiểu sự kiện này , nên buông bỏ ba loại hành động : Tốt , xấu và trung tínhdo thân tạo ra và ngồi như một xác chết trong nghĩa địa không làm gì cả . Buông bỏ ba loại hành động của ngữnhư người câm .Cũng như buông bỏ ba loại hành động của tâm thức : Nên an trụ không thi thiết như bầu trời mùa thu .Không có những duyên làm ô nhiễm nên được gọi là :“ Thiền Định Quân Bình ” . 

Cũng được gọi là :“ Bỏ mọi điều phải làm ” hay “ Không có điều gì để làm ” .Vì mọi cách thức hoạt động đã buông bỏ và“ Vượt khỏi tâm lý trí bình thường ”. Vì không có sự thi thiết , tạo tác của tâm lý trí bình thường . Trong bối cảnh điểm then chốt này sẽ khám phá sự tin cậy kiên cố vĩ đại .

Hơn nữa , vào tất cả mọi lúc . Khi đi , ngồi , di chuyển , cử động , tụng chú , nói , suy nghĩ hay hành động . Không để mất viễn cảnh cái thấy của mình . Hãy tỉnh giác rằng :Thế giới tất cả mọi hiện tượng có thể có đều như huyễn .Không  mất sự tự tin kiên cố vào thiền định . Hãy tỉnh giác bản tánh hiển lộ rõ ràng . Không xao lãng trong cư xử . Dựa một cách đúng đắn vào bốn loại hạnh đích thực . Đấy là những điểm then chốt để nương dựa cho đến ngày chấm dứt cuộc đời . Đây là thiền định vốn tự do thoát khỏi tâm lý trí bình thường .

Điểm then chốt của hạnh là : Từ bỏ những hành động không đức hạnh của thân và ngữ như thuốc độc .Không quá nhấn mạnh vào cái thấy . Đến độ hy sinh hạnh bằng cách nghĩ :Vì mọi sự đều không . Nên không bị nhiễm ô bởi những khuyết điểm bất kể cư xử như thế nào .Thế nên , hãy bình an , tự điều phục và cẩn trọng như người đang ra trước tòa đại hình .

Ngược lại , do bám chấp vào những hành động đức hạnh thứ yếu của thân , ngữ , ý .Cho chúng là sâu xa ,như thế sẽ coi nhẹ cái thấy và thiền định chân chính .  Nếu tiêu phí cuộc đời làm người và  tích tập công đức trong vòng sinh tử .Chắc chắn vẫn bị trói buộc cho dù với sợi xích bằng vàng .Không quá nhấn mạnh vào hạnh đến độ hy sinh cái thấy .Như thế sẽ sống như con sư tử tuyết oai hùng đi dạo trên băng tuyết . Không có con thú nào làm cho bối rối .

Nhất là , nếu đi theo những người nói rằng : Dù người đã chứng ngộ tánh Không cũng phải trau dồi lòng bi ở chỗ khác tương tự nói rằng : Dù có nước vẫn phải tìm tính ướt ở chỗ khác . Cho dù có lửa vẫn phải tìm sức nóng ở chỗ khác . Hay đang được gió thổi mà lại tìm sự mát mẻ ở chỗ khác .Kinh nghiệm rốt ráo và quyết định chứng nghiệm Sinh tử và Niết bàn chính là tánh Không tối thượng . Cũng là Bồ đề tâm rốt ráo và đó là lòng bi hưởng thụ sự thanh tịnh bình đẳng của Sinh tử và Niết bàn .

Có những người , khi được trực tiếp giới thiệu và hiểu biết những điểm then chốt và những tiến trình căn bản của cái thấy và thiền định đúng như chúng là . . . Lại đi xét đoán cho là : Chỉ riêng sự giới thiệu này cũng là quá đủ .Như thế , vẫn còn bám chấp vào những sự việc cần làm trong vòng sinh tử . Họ đã phí phạm những cuộc đời làm người trong đủ loại hạnh đặt nền trên sự tham luyến và ghét bỏ . Tất cả cái thấy và thiền định của họ chìm ngập trong những hành động và hoạt động của vòng sinh tử .

Những kinh nghiệm thiền định phù du xảy ra trong tâm thức bình thường và dòng thức giác hoàn toàn khác như :

Những kinh nghiệm về lạc thú ,
Thúc đẩy tái sinh làm một vị trời cõi Dục .

Những kinh nghiệm sống động về sáng tỏ ,
Thúc đẩy tái sinh vào cõi sắc .

Những kinh nghiệm về cái không
Sự xuất thần trong trạng thái vô niệm như ngủ say .
Không nhớ hay tỉnh giác ,
Thúc đẩy tái sinh trong bốn trạng thái của cõi Vô sắc .

Không có một chút ý niệm mơ hồ về cái thấy tánh Không ;
Vì thế ,
Có thể quyết định theo trí thức rằng :
Tâm là trống không .
Chỉ vì ;
Không thể xác định như là một thực thể có thật .
Nên an định nhất tâm vào bối cảnh tánh Không đó .
Cái thấy này sẽ  thúc đẩy đến chót đỉnh của đời sống hữu vi ,
Có nghĩa tái sinh làm vị trời trong trạng thái không tri giác .

Cũng như có thể gặp những biến động  :

Những biến động bên ngoài là ;
Những phô diễn dị thường khác nhau ;
Làm ảnh hưởng đến giác quan như :
Những triệu xấu như những mưu toan của quỷ thần .

Những biến động bên trong là :
Bệnh tật và đau đớn trong thân .

Những biến động bí mật là :
Những sự dao động tâm trạng không duyên cớ .

Nếu ý thức được những khuyết điểm kín đáo này . Chúng ta sẽ thấy chúng đều là những kinh nghiệm hư giả . Vì thế , khi đã đạt đến quyết định về chuyện này . Chúng sẽ tự tan biến . Nếu tự củng cố chúng bằng hy vọng và sợ hãi cho là thật . Tất nhiên chúng có thể trở nên những trường hợp làm nguy hại tính mệnh như :Thời kỳ loạn thần . Có nghĩa , trở nên bám chấp cứng ngắc vào những hiện tượng hình tướng biểu lộ như quỷ thần .Đó là nguyên nhân khiến một Đại thiền giả thoái hóa thành một người rất thường tục ” .

Nói thế xong ngài biến khỏi tầm nhìn .

SHARE:

Trả lời