Những Lợi Lạc của những thực hành và những giai đoạn và những con đường theo Đại Ấn

SHARE:


ĐẠI ẤN THIỀN XÓA TAN BÓNG TỐI CỦA VÔ MINH
Karmapa thứ Chín Wangchug Dorje với bình giảng khẩu thuyết của
Beru Khyentze Rinpoche – dịch từ tiếng Tây Tạng và biên tập bởi Alexander Berzin
Văn phòng Dịch thuật Thư Viện những Tác phẩm và Văn thư Lưu trữ của Đức Dalai Lama
Việt dịch: Đương Đạo – Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2001 TTT-19-2545/09-01

1. MỞ ĐẦU 21. Chú tâm vào Hơi thở và Ba giai đoạn An định Tâm thức
2. PHẦN MỘT NHỮNG SƠ BỘ 22. Loại bỏ Siết chặt và Buông lỏng
3. Quy y, Lễ lạy và Bồ đề tâm 23. Trạng thái Định tâm thực sự và Ba Ân điển
4. Thiền định Vajrasattva 24. PHẦN BA THIỀN QUÁN (QUÁN CHIẾU)
5. Cúng dường Mạn đà la 25. Nhìn vào Tâm an định
6. Guru Yoga 26. Nhìn vào Tâm chuyễn động hay khởi tưởng
7. Cái Chết và Vô Thường 27. Nhìn vào Tâm phản chiếu những hình tướng và vào Tâm trong tương quan với Thân
8. Nghiệp và Luật Nhân Quả 28. Nhìn vào cùng lúc Tâm an định và Tâm chuyễn động
9. Những Tai Hại của Sanh Tử 29. Nhận ra Bản tánh của Tâm an định
10. Sự Quí Giá Được Tái Sanh Làm Người 30. Nhận ra Bản tánh của Tâm chuyễn động hay Tâm nghĩ tưởng
11. Điều Kiện Nguyên Nhân Cho Thành Công 31. Nhận ra Bản tánh của Tâm phản chiếu cảnh vật và của Tâm trong liên hệ với Thân
12. Điều Kiện Chính Yếu 32. Nhận ra cùng lúc Bản tánh của Tâm an định và Tâm chuyễn động
13. Điều Kiện Khách Quan 33. PHẦN BỐN NÂNG CẤP SỰ THỰC HÀNH CỦA CON
14. Điều Kiện Trực Tiếp 34. Phối hợp Đại Ấn với những Thực hành khác và Bốn hoạt động
15. PHẦN HAI THIỀN ĐỊNH 35. Năm tà kiến, Ba thiện xảo và Bốn thân Phật
16. Những tư thế căn bản của Thân và Tâm 36. Ba chỗ con có thể lạc và Bốn chỗ con có thể mất tánh Không
17. Chú tâm trên một Đối tượng Thấy 37. Những Điểm nguy hiểm nơi sự vật có thể khởi lên như kẻ thù và những nhiễu loạn khác
18. Những Đối tượng Giác quan khác 38. Những Lợi Lạc của những thực hành và những giai đoạn và những con đường theo Đại Ấn
19. Trừ bỏ Hôn trầm và Xao động 39. Những định nghĩa kết thúc
20. Chú tâm Không Đối tượng 40. LỜI CHÚ CỦA TÁC GIẢ

NHỮNG LỢI LẠC CỦA NHỮNG 
THỰC HÀNH VÀ NHỮNG GIAI ĐOẠN 
VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG THEO ĐẠI ẤN

Về những lợi lạc (hay những phẩm tính tốt đẹp), thì những lợi lạc của những thực hành sơ bộ đem lại sự thành tựu những mục tiêu tạm thời và tối hậu cho con. Đó là vì chúng là nền tảng cho con đạt được một tái sanh tương lai tốt hơn cũng như những con đường đến Giác Ngộ.

Tham thiền về sự khó khăn có được thân người và về cái chết và vô thường, con sẽ xoay tâm con khỏi những tư tưởng về cuộc đời này. Suy nghĩ về nghiệp và nhân quả, con sẽ có được sự tin chắc sâu xa vào chúng và năng lực bảo vệ (những lời nguyện giới luật) dù với cái giá mạng sống của con. Suy nghĩ về những tai hại của sanh tử, con sẽ phát triển sự chán sợ sanh tử và ba cõi của nó. Đã phát triển từ bỏ, con sẽ mong đạt đến duy nhất trạng thái Giác Ngộ của Phật. Tham thiền về từ, bi và Bồ đề tâm, con sẽ thoát khỏi những tham muốn hạnh phúc cho riêng mình và sẽ có những tư tưởng chỉ vì lợi lạc của chúng sanh.

Nỗ lực trong yoga thần chú một trăm âm, con sẽ nhận được những dấu hiệu thật sự và ở trong giấc mộng, biết rằng con đã được tịnh hóa để khỏi phải trải qua những nghiệp xấu của những hành vi các đời trước. Nhờ đó con dễ dàng khai triển những kinh nghiệm và những quán chiếu. Cúng dường mạn đà la, thân thể con sẽ hoan lạc, tâm thức con trong sáng, tham muốn ít và con sẽ được công đức vô lượng. Thiền định về guru yoga, mong cầu thành khẩn và sự tôn kính thương yêu của con sẽ sáng mạnh hơn nhiều nữa. Con sẽ nhận những ban phước và cảm ứng của ngài cũng như sự tập trung. Con sẽ khai triển không cần cố gắng những kinh nghiệm và quán chiếu. Sự tiến bộ của những thực hành có hay không tùy thuộc vào sự sùng mộ Guru của con.

Đối với những thực hành thật sự (so với những thực hành sơ bộ), những lợi lạc của định tâm là con khai triển không lầm lỗi những ân điển lạc, sáng tỏ và vô niệm trần trụi. Sự khao khát thức ăn và đồ mặc của con sẽ giảm. Thân con sẽ trở nên rực rỡ và chiếu sáng, tâm con uyển chuyển và con sẽ đạt được những cái như các năng lực siêu giác quan và năm nhãn. Những mê lầm và vọng tưởng sẽ mờ đi và biến mất.

Chúng sẽ mờ đi bởi ánh sáng rực rỡ của định tâm, như những ngôi sao không còn xuất hiện bởi có mặt trời.
Năm nhãn là : (1) nhục nhãn thấy những vật ở xa, 
(2) thiên nhãn thấy những tái sanh quá khứ và tương lai, (3) huệ nhãn tri giác trần trụi về tánh Không, (4) pháp nhãn thấy căn cơ của những người khác khiến bạn biết làm sao và dùng cái gì để dạy họ, (5) Phật nhãn hiểu thấu mọi sự một cách toàn giác. Theo Abhisamayalamkara của Maitreya, mỗi nhãn này được đạt đến một cách tuần tự trên năm con đường đến Giác Ngộ.

Về những lợi lạc của quán chiếu, những người bén nhạy sẽ vượt qua những giai đoạn và những con đường tất cả một lần (đốn giác). Những người trung bình đôi khi đi thẳng hết một lần và đôi khi đi theo những giai đoạn, tiệm tiến theo cách nhảy vọt. Những người kém thì tiến bộ dần dần theo những giai đoạn, đi từ người mới học đến địa thứ mười của Bồ tát. Con đường họ đi phù hợp với con đường họ khai triển bốn lần ba, tức mười hai yoga.

Năm con đường và mười giai đoạn (địa) của Bồ tát đến Giác Ngộ, như đã phác họa ở trước, có thể chia thành nhiều đường và được vượt qua bằng nhiều kỹ thuật. Có những phương pháp tổng quát của mỗi đường của những phái Phật giáo Ấn Độ và những loại khác nhau của tantra. Theo hệ thống do Gampopa vạch ra trong “Trang Hoàng Châu Báu của Giải Thoát”, những giai đoạn này có thể chia thành mười ba : ước nguyện, thành khẩn mong cầu, mười địa Bồ tát và Phật quả. Trong hệ thống Đại Toàøn Thiện lại có cách chia khác. Ở đây trong Đại Ấn năm con đường và mười địa được chia thành mười hai yoga. Nhưng bất kể cái bánh được cắt như thế nào, chất nền tảng, những quán chiếu và quả thành tựu là như nhau.

(Tổng quát khi con đạt được định tâm) con có thể đặt mình trong bao lâu tùy ý muốn trong một trạng thái lạc, sáng tỏ và vô niệm trần trụi. Dù con có thể an trụ trong một trạng thái tham thiền như vậy, nếu đôi khi chúng không đến mặc dù con đang thiền định và vào lúc khác chúng lại đến khi con không tham thiền, đó là bởi vì con chưa đạt được sự kiểm soát lớn đối với tập trung nhất tâm. Đây là giai đoạn sơ cấp hay nhỏ của nhất tâm. Nếu con có một sự an định tâm trong đó con không bị quấy nhiễu bởi bất kỳ sự xao lãng nào và bất kỳ khi nào con tham thiền (những ân điển – lạc, sáng tỏ và vô niệm) đều đến, bấy giờ con đã làm chủ đối với tập trung nhất tâm. Đây là giai đoạn giữa của nhất tâm. Nếu (sự tập trung của con) không có gián đoạn và con không xao lãng ngay cả trong những trường hợp dữ dội, nếu tất cả tư tưởng của con được bình lặng trong trạng thái này, nếu con hòa lẫn vào trạng thái này khi ngủ và không bao giờ rời khỏi nó trong tất cả các hoạt động của con, đây là giai đoạn cao cấp hay lớn của nhất tâm.

Đến đây bởi vì những ân điển hiện diện trong mọi lúc, con có thể nghĩ rằng đó là giai đoạn vĩ đại của “không tham thiền nữa” (nói cách khác là Giác Ngộ). Nhưng ngoài việc thấy có những ân điển ấy, đó không phải là một quán chiếu thật sự (tánh Không). Những giai đoạn nhất tâm ấy còn ở trên con đường tích tập và chuẩn bị. Bởi vì con chưa hoàn toàn chứng ngộ bản tánh của tâm, ân điển mà con bám lấy như sự trần trụi trống không chỉ là đặc trưng chính của sự định tâm. Do tu hành một thời gian lâu không bị hấp dẫn ám ảnh bởi ân điển ấy, những kinh nghiệm ấy sẽ trở nên thanh tịnh. Mọi phương diện kéo dài của lạc, sáng tỏ và vô niệm trần trụi sẽ tan rã, tiêu tan, (đến nỗi trạng thái ấy khởi lên và lặng mất đồng thời trong mỗi khoảnh khắc) và rồi con thấy chân lý (tối hậu) của bản tánh trống không của sự vật. Nói cách khác, khi (sự ám ảnh và bám chấp vào sự thực có của những ân điển) đã được bình lặng vào trong một trạng thái không đối tượng hóa của tánh Không có ba đức tính lạc, sáng tỏ và vô niệm trần trụi, thật tánh của tánh giác (hay của tâm) hiển lộ nơi con một cách thanh tịnh như một trái cây lột vỏ, hay như một kho tàng được tìm thấy.

Ở đây vỏ là sự ám ảnh của bạn đối với những ân điển hay những kinh nghiệm chớp sáng và sự bám níu vào sự hiện hữu thực của chúng. Khi những cái đó tan rã và được lột bỏ, bạn đạt đến quả bên trong, tức là bản tánh trống không của tâm, có đặc tính là lạc, sáng tỏ và vô niệm trần trụi, tuy trống không nhưng khởi và lặng đồng thời trong từng khoảnh khắc.

Đây là sự đạt đến con đường thấy (tánh) của Đại thừa và cũng gọi là trạng thái tự do khỏi những tạo tác tâm thức. Đến đây, nếu con còn chưa hoàn toàn tách lìa thói quen bám chấp vào sự trống trơn và bị nó ám ảnh và nếu con chỉ thực thấy thật tánh của tâm một chút ít, đây là giai đoạn sơ cấp thoát khỏi những tạo tác tâm thức. Khi con đã tịnh hóa điều này từ gốc rễ của nó, nếu trạng thái bình thường của thức trở nên không có đối tượng mà sáng rỡ tương hợp với huệ quán của con, đây là giai đoạn giải thoát khỏi những tạo tác tâm thức. Khi điều này đã trở thành vững chắc và con đã được tịnh hóa khỏi trạng thái ấy, sự thanh tịnh dễ có về mặt những tư tưởng nhưng khó có về mặt những hình tướng, bấy giờ con đã đạt được huệ quán rằng mọi sự là không và không có một vật gì không là không. Khi con đã cắt mọi đánh giá so đo cao thấp về tánh Không của tất cả những hiện tượng bên ngoài và bên trong, đây là giai đoạn cao cấp thoát khỏi những tạo tác tâm thức.

Trong những thời kỳ sau thiền định của những giai đoạn này, những hình tướng xuất hiện đều giống như ảo ảnh. Con có được huệ quán (thấy) thật tánh của của Bồ đề tâm và trừ bỏ tám mươi hai mê lầm thô được đoạn trừ trong con đường thấy. Con không còn tái sanh trong ba cõi của sanh tử luân hồi bằng bốn loại sanh trừ khi bởi nguyện lực (tiếp tục sanh để giúp đỡ chúng sanh). Đây gọi là sự chứng đắc con đường thấy hay sự chứng đắc địa thứ nhất của Bồ tát gọi là Hoan hỷ địa. Tiếp tục trau dồi con đường thấy này một thời gian lâu, con sẽ đến giai đoạn Độc vị.

Ở bước đầu của giai đoạn Độc vị này, vẫn còn một ít khó khăn để trụ trong cái bây giờ và ở đây (cái hiện tiền) tự động lặng dứt, trong đó bất kỳ tư tưởng nào khởi lên đều là một phúc lạc và vô tự tánh. Nhưng khi điều này đã được tịnh hóa, bấy giờ dù con đã thoát hay chưa thoát khỏi sự tạo tác của tâm thức rằng những sự vật thật sự là không hay không phải là không, chỉ cần nhận ra lại bản tánh của cái bây giờ và ở đây này.

Dầu bạn phải thoát khỏi mọi cực đoan như chấp tánh Không, đó là đoạn kiến, hay chấp không phải là tánh Không, đó là chấp có, thường kiến, thì những tạo tác tâm thức cách nào cũng chỉ được tịnh hóa bằng việc nhìn thấy tánh của cái ở đây và bây giờ, trong đó những tư tưởng méo mó như vậy đồng thời khởi và lặng như những bánh vẽ trên mặt nước.

Khi con đã đạt được quán chiếu thật tánh của mọi sự, bấy giờ con thấy mọi sự đều là một vị trong bản tánh và con có thể hiểu trọn vẹn về mặt hình tướng hay về mặt tánh Không, bất cứ giáo lý nào có thể có của những con đường.

Nền tảng thường trụ của cái ở đây và bây giờ là cái một vị độc nhất của cả hình tướng và tánh Không trong trí huệ nguyên sơ của sự bất nhị của hai cái ấy. Như thế dù bạn đang tỉnh giác về một hình tướng hay tánh Không của nó, bạn thấy cái độc vị của cả hai, tức là nền tảng thường trụ của trí huệ nguyên sơ trong mọi giáo lý của những con đường.

Đây là giai đoạn sơ cấp của độc vị.

Ở giai đoạn này, kinh nghiệm (về vị độc nhất của tướng và tánh này) vẫn còn trộn lẫn với một ít ý niệm.

Ý niệm này là “đây là kinh nghiệm về cái ở đây và bây giờ”, như thế có chứa sự bám chấp của bạn vào nó như là một “vật”.

Khi kinh nghiệm đó được tịnh hóa, bấy giờ mọi sự đều hòa tan thành một vị độc nhất của bản tánh thanh tịnh của mọi sự vật – thức và trí, tướng và tâm, không có gì là ở ngoài, ở trong. Khi tánh bình đẳng của sanh tử và giải thoát, sự bất nhị của sanh tử và Niết Bàn, xuất hiện trực tiếp và chân thật, đây là giai đoạn giữa của độc vị.

Khi mọi sự đã xuất hiện như là độc vị, bấy giờ một vị độc nhất này xuất hiện trở lại như là nhiều qua những hình tướng phát hiện bởi một tiến trình duyên khởi như là phương tiện thiện xảo, đây là giai đoạn cao cấp của độc vị.

Trong quá trình tan biến của những nguyên tố thân thể như phác họa ở trước, thức tuần tự nương dựa vào ít nguyên tố hơn. Như thế nếu tan biến vào nước, nghĩa là thức không còn nương dựa vào nguyên tố đặc biệt là đất nữa. Rồi nước tan vào lửa, lửa vào không khí hay gió-năng lực và gió vào không gian. Ba giai đoạn tiếp theo đó : những kinh nghiệm màu trắng, đỏ và đen khi những năng lực sáng tạo trắng và đỏ hay chất Bồ đề tâm rơi xuống từ trung tâm đỉnh đầu, khởi từ trung tâm rốn và gặp nhau ở trung tâm trái tim. Sau đó là kinh nghiệm Pháp thân Tịnh Quang, nó có thể có vào lúc chết, khi đi vào giấc ngủ, bất tỉnh hay trong những thiền định tantra cao cấp. Qua tiến trình này bạn đến chỗ chứng ngộ một vị độc nhất của mọi sự trong Pháp thân.

Sau đó tiến trình tiến hóa trở lại của những nguyên tố xảy ra trong đó thức trải qua những kinh nghiệm màu đen, đỏ và trắng và rồi dần dần nương dựa vào những nguyên tố như gió-năng lực, lửa, nước và đất khởi lên trở lại trong quá trình đi vào trung ấm, tái sanh, thức dậy và một số thực hành tantra cao cấp. Điều này xảy ra nhờ duyên sanh, ở đây ám chỉ đến nhân quả, và được thúc đẩy bởi những phương tiện thiện xảo để bảo đảm cho một sắc tướng hầu làm lợi lạc cho những người khác.

Chứng ngộ một vị của hình tướng và tánh Không qua cả hai tiến trình tan biến và tiến hóa trở lại là giai đoạn cao cấp của độc vị.

Giờ đây con đã đạt được nhẫn với mọi sự bởi vì con đã hoàn toàn chứng ngộ thực sự không có sự sanh khởi. Việc này bao trùm từ địa thứ hai đến địa thứ bảy, với một số tác giả thì nó gồm cả địa thứ tám.

Có nhiều cách định nghĩa mười hai yoga của hệ thống Đại Ấn. Theo những giải thích tổng quát trong những công trình của Kongtrul Rinpoche thứ Ba, cách định nghĩa đơn giản hơn là như sau.

Những giai đoạn tập trung nhất tâm có sự thành tựu định tâm. Ở giai đoạn sơ cấp, những ân điển xuất hiện lần lượt, khi có khi không. Ở giai đoạn giữa chúng đến một cách tự động và ở giai đoạn cao cấp chúng trộn lẫn không thể tách lìa với Tịnh Quang dù trong giấc mộng.

Những giai đoạn thoát khỏi tạo tác của tâm thức là thoát khỏi bám chấp vào tâm như là thuộc bốn cực đoan – thực có, hoàn toàn không có, vừa có vừa không, không có cũng không không. Cặp cực đoan vừa có vừa không nói lên sự bám chấp vào những hiện tượng là có thật trên góc độ tương đối và hoàn toàn không có trên cấp độ tối hậu. Dù những hiện tượng không thật cũng không hoàn toàn không có, cặp cực đoan không có cũng không không là bám chấp một cách ý niệm vào sự kiện này như nó là một “vật”. Ở giai đoạn sơ cấp thoát khỏi tạo tác của tâm thức bạn chứng ngộ tâm là không có sự sanh khởi nội tại, sự trụ và diệt nội tại. Ở giai đoạn giữa, bạn không có bám níu vào cả hình tướng lẫn tánh Không. Ở giai đoạn cao cấp bạn hoàn toàn cắt đứt vọng tưởng so đo có không, thường đoạn tạo tác bởi tâm thức.

Trên những giai đoạn một vị độc nhất, những hình tướng và tâm trở nên hoàn toàn hòa lẫn. Ở những giai đoạn sơ cấp tất cả những sự vật nhị nguyên hòa lẫn với một vị bình đẳng của tánh Không. Ở giai đoạn giữa, những hình tướng và tâm như nước hòa lẫn với nước. Ở giai đoạn cao cấp bạn thấy sự khởi lên của năm trí huệ nguyên sơ từ cùng một vị.

Mọi định nghĩa như vậy không mâu thuẫn và căn cứ trên kinh nghiệm cá nhân của một thiền sư.

Hơn nữa dù có nhiều đặc tính phân biệt trong mỗi địa trong mười địa của Bồ tát, một đặc tính ấy là ở mỗi địa bạn hoàn thiện trọn vẹn một trong mười ba la mật. Như thế ở địa thứ nhất là bố thí và tiếp theo trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ phân biệt, phương tiện thiện xảo, năng lực, nguyện và trí huệ nguyên sơ. Trí huệ phân biệt (prajna) biết về tánh Không, phân biệt đúng và sai giữa những cách thế hiện hữu. Trí huệ nguyên sơ (jnana) biết tính bất nhị của hai cấp độ chân lý, của hình tướng và tánh Không. Đôi khi được nói mơ hồ là trí huệ.

Giờ đây những trạng thái thiền định và sau thiền định trở nên hòa lẫn. Trước kia vẫn còn một số dấu vết nhiễm ô của sự bám chấp vào sự trống không trong thời gian sau thiền định. Nhưng khi điều đó đã được tịnh hóa, mọi sự trở nên thanh tịnh trong cõi giới trống trải bao la trong đó không có gì để chứng đắc, không có một chút khác biệt nào giữa động niệm và vô niệm trong khi thiền định và sau thiền định. Khi con thoát khỏi mọi dấu vết của nhị nguyên giữa cái được tham thiền và người tham thiền, đây là giai đoạn sơ cấp của “không thiền định nữa”. Đây là đệ bát địa Bồ tát.

Đến đây đôi khi vẫn có thể có những dấu vết nhiễm ô nhẹ của sự bám chấp năng sở khởi lên khi ngủ. Khi điều này đã được tịnh hóa, và mọi sự trở nên nhất như giống như trạng thái đại định của trí huệ nguyên sơ, đây là giai đoạn giữa của không-thiền định. Đây là địa thứ chín và thứ mười.

Bấy giờ khi lưỡi kiếm của trí huệ phân biệt và nguyên sơ cắt sạch tận gốc những chướng ngại tiềm ẩn ngăn che Toàn Giác (những bản năng của tất cả vô minh), Tịnh Quang mẹ, cõi giới hoàn toàn thanh tịnh rỗng rang của mọi sự, và Tịnh Quang con, trí huệ nguyên sơ như tấm gương, hòa lẫn thành một. Đây là sự chuyển hóa hoàn toàn thành Giác Ngộ viên mãn của một vị Phật, trạng thái Hợp Nhất không còn gì để học nữa. Đây là giai đoạn cao cấp của không thiền định nữa hay Phật quả.

Do đi qua địa thứ tám, thứ chín và thứ mười đến địa thứ mười một này, tánh thanh tịnh tự nhiên của trạng thái bổn nguyên (sự hợp nhất đồng thời cõi giới của tánh Không và trí huệ nguyên sơ như tấm gương) là Pháp thân mà con đã làm hiển lộ.

Những thân Phật có thể chia thành hai : Pháp thân và Sắc thân, hay thân Trí huệ và thân Sắc tướng. Cái trước là kết quả của sự đoạn trừ rốt ráo mọi ngăn chướng của một vị Phật và đáp ứng cho những mục tiêu riêng của ngài. Cái sau là do sự hoàn thành rốt ráo mọi phẩm tính tốt và từ Bồ đề tâm của ngài để đáp ứng những mục tiêu của những chúng sanh khác.

Pháp thân thoát khỏi sanh, trụ, diệt. Nó là bản tánh thường trụ, tự nhiên thanh tịnh, thường hằng, không do duyên của tâm và mọi trần cảnh. Trí huệ nguyên sơ của cõi giới rỗng rang của mọi sự luôn luôn thấy tánh Không. Trí huệ nguyên sơ của cõi giới nguyên sơ như tấm gương thì phản chiếu mọi hiện tượng không chướng ngại. Như thế Pháp thân là sự hợp nhất đồng thời của hai trí huệ nguyên sơ này, Tịnh Quang mẹ và con, trong những bản văn khác là tâm toàn giác của một vị Phật và tánh Không của tâm ấy.

Tánh thanh tịnh tự nhiên của tư tưởng, nó là tâm thức của chúng sanh, là Báo thân mà con đã làm hiển lộ.

Sự định nghĩa kinh điển chung về Báo thân là Sắc thân với năm đặc tính chắc chắn. (1) Sắc tướng, thân thể có một trăm hai mươi tướng chánh và phụ của một vị Phật. (2) Giáo lý, luôn luôn dạy giáo lý Đại thừa. (3) Đệ tử, chư thánh Bồ tát. (4) Nơi chốn, luôn luôn trong cõi Tịnh độ. (5) Thời gian, cho đến khi sanh tử chấm dứt. Ở đây Báo thân được định nghĩa là tánh thanh tịnh tự nhiên của tư tưởng. Hai định nghĩa này không đồng nhất.

Các thánh Bồ tát là những vị với Bồ đề tâm, có tri giác trần trụi, không ý niệm về tánh Không. Do đức hạnh của một huệ quán như vậy, môi trường chung quanh của các ngài trở thành một cõi Tịnh độ của Phật. Tánh thanh tịnh tự nhiên của tư tưởng là cái gì chỉ có những vị như vậy có thể tri giác được. Bởi thế Báo thân là sự thanh tịnh này của tư tưởng chỉ có những thánh Bồ tát thấy. Tuy nhiên, nếu bạn mê mờ về tánh thanh tịnh tự nhiên này, bấy giờ những tư tưởng đánh lừa bạn khiến bạn tin chúng thực có và như thế bạn không thể thấy Báo thân.

Và tánh thanh tịnh của những hình tướng như là những đối vật tùy duyên là Hóa thân mà con đã làm hiển lộ.

Cũng như nếu một sàn bằng đá da trời mà không được lau bóng láng, sự xuất hiện của vua Trời Đế Thích không xuất hiện trong đó được, nếu tâm của chúng sanh không thanh tịnh, họ sẽ không thấy Phật dù ngài đang đứng trước mặt họ. Như thế những Hóa thân của một vị Phật là sự thanh tịnh tự nhiên của những hình tướng xuất hiện đối với tâm của chúng sanh bình thường. Chúng xuất hiện như những hiện tượng khởi lên từ những nhân duyên và có thể xếp thành ba phạm trù.

Những Hóa thân tối thượng, như Phật Thích Ca Mâu Ni, có đủ tướng chánh và tướng phụ, thực hiện mười hai công hạnh của một vị Phật : xuống từ cõi trời Đâu Xuất, sanh ra trong một gia đình hoàng tộc, giỏi việc thế gian, từ bỏ, khổ hạnh, Giác Ngộ dưới cây Bồ đề, chuyển pháp luân v.v… Nếu không đầy đủ công đức và sự thanh tịnh, có thể thấy Thích Ca Mâu Ni là một vị Phật, ngài chỉ xuất hiện như một người cao lớn với hai tai dài. Nếu có đầy đủ tâm thanh tịnh, Guru của bạn sẽ xuất hiện với bạn như một vị Phật.

Những Hóa thân bình thường xuất hiện dưới hình thức khỉ, chim… Vì những mục tiêu đặc biệt để dạy những chúng sanh đặc biệt. Một số Hóa thân xuất hiện như những bậc thầy nghệ sĩ, y sĩ, nhạc sĩ… Để dạy qua trung gian nghề đặc biệt của họ. Như thế hình tướng thanh tịnh của một Hóa thân tùy thuộc vào sự thanh tịnh của tâm của người nhìn.

Ba thân Phật và sự hóa hiện vô số thân từ đó thì vượt khỏi mọi tưởng tượng và hóa độ cho chúng sanh mà không có tạo tác tư tưởng và không có cố gắng. Vì không cố gắng mà đáp ứng những mục tiêu của tất cả chúng sanh vô biên như không gian và làm như thế cho đến khi sanh tử luân hồi trống trơn, đây là phẩm tính thiện tối hậu.

Có nhiều cách liệt kê và định nghĩa những thân Phật. Trong những giáo lý tantra tổng quát, thân, ngữ, tâm giác ngộ được giải thích là Hóa thân, Báo thân và Pháp thân. Trong một số hệ thống ngoài bốn thân thường được biết, còn thêm vào Kim cương thân (tánh bất biến của Giác Ngộ), Trí Huệ thân… Nhưng dù có nhiều thân được diễn tả, đức hạnh của chúng trong việc giúp đỡ chúng sanh là như nhau.

Một vị Phật thì thoát khỏi mọi tư tưởng, mọi tiến trình ý niệm. Ngài biết mọi sự qua tri giác trần trụi. Như thế khi giúp đỡ những người khác, ngài làm như thế một cách tự phát không có tư tưởng. Thiện hạnh của ngài, bởi thế, là không cố gắng. Điều ấy bởi vì khi một vị Phật còn trên những con đường đến Giác Ngộ ngài đã phát vô số nguyện có thể làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Thành thử khi Giác Ngộ, khả năng đó của ngài là kết quả của những lời nguyện này và không cần sự cố gắng của thức hay tư tưởng nữa. Như một đám mây không có ý làm lợi lạc cho cây cỏ, tuy nhiên khi mưa điều đó tự động xảy ra, cũng thế một vị Phật làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh.

Có vài khía cạnh của thiện hạnh của một vị Phật, là giải thoát nhờ thấy, nhờ nghe, nhớ lại và nhờ xúc chạm. Chỉ thấy một vị Phật, nghe lời ngài, nhớ lại chúng hay được tay ngài xúc chạm, bạn có thể được giải thoát khỏi khổ. Điều này không có gì thần bí và về phần bạn không cần làm gì cả. Một giải thoát tức thời như vậy có thể xảy ra trong những trường hợp rất hiếm hoi nhờ sự tích tập công đức khổng lồ trước kia. Nhưng một sự thấy, nghe… như vậy nhất định gieo hạt giống nghiệp lành nối kết với Giác Ngộ và gây cảm hứng cho bạn nỗ lực đạt đến trạng thái ấy.

Tuy nhiên, mọi sự như vậy xảy ra không có nỗ lực cố ý về phần Phật. Chẳng hạn, chỉ nhìn thấy đức Dalai Lama có thể làm bạn tràn đầy cảm hứng để thực hành Pháp, mà về phần ngài không cần phải làm điều gì cả. Tháp hay công trình kỷ niệm ở Bồ Đề đạo tràng nơi đức Phật Thích Ca biểu lộ Giác Ngộ thì không có tư tưởng hay cố gắng nào, nhưng nhiều người thấy nó đã xúc động đi nhiễu quanh và được những tư tưởng tôn giáo gây cảm ứng.

Thí dụ cổ điển của việc giải thoát qua thấy và nghe là của vua Trời Đế Thích. Đế Thích ngồi trong cung điện pha lê của mình và không làm gì cả nhưng hình tướng của ngài phản chiếu trên mọi khía cạnh của những bức tường cung điện. Người trên trái đất thấy hình ảnh phản chiếu đẹp đẽ của ngài và được cảm hứng để làm việc cho sự thành tựu trạng thái của ngài. Cũng thế, Đế Thích có một cái trống trời, âm thanh của nó gây xúc động đến độ người ta phát triển những quán chiếu sâu xa khi nghe tiếng trống.

Như mặt trời mặt trăng không có ý định làm lợi lạc cho con người, một vị Phật đáp ứng những nguyện vọng của chúng sanh không cần cố gắng, qua thiện hạnh không có tư tưởng của ngài.

Những cái trên là những lợi lạc từ những thực hành sơ bộ suốt hết con đường cho đến giai đoạn không còn thiền định. Nếu con cố gắng khai triển những chứng đắc đó lần lượt, không để cho cái nào đã có bị suy thoái mà bao giờ cũng tăng trưởng, những lợi lạc ấy sẽ đến. Tăng trưởng sự tinh tấn của con như vậy và thực hành là điểm thứ sáu để nâng cấp.

SHARE:

Trả lời