ĐẾN LIỆU PHÁP TÂM LÝ VÀ THIỀN ĐỊNH

SHARE:

Liệu pháp tâm lý hiện đại tốt nhất cũng giống hệt một tiến trình thiền định chia sẻ, nơi nhà trị liệu và thân chủ cùng nhau học cách chú tâm đến các phương diện và những chiều kích của cái bản ngã mà có lẽ thân chủ ấy không thể tự mình chạm đến được.
Mỗi khi các giáo huấn Phật giáo du nhập vào các quốc gia mới, như là Trung Hoa, Nhật Bản và Tây Tạng, chúng đều bị ảnh hưởng sâu sắc do sự gặp gỡ các nền văn hóa và tôn giáo bản địa. Từ những cuộc gặp gỡ này, những hình thức tu tập hoàn toàn mới, như Thiền và mật chú, đã phát triển. Tiến trình này hiện đang diễn ra ở Tây phương. Trong “những thực tập nội tại” ở Tây phương, cái đang có tác động thực nghĩa nhất lên Phật giáo và mọi đời sống tâm linh đương đại chính là sự hiểu biết và thực hành của tâm lý học phương Tây. Nhiều thiền sinh và đạo sư nghiêm túc của đạo trình tâm linh ở phương Tây đã thấy rằng nó cần thiết hoặc hữu ích khi xoay liệu pháp tâm lý vào hướng trợ giúp đời sống tâm linh của mình.

Liệu pháp tâm lý Tây phương có làm được điều mà thực tập tâm linh truyền thống và thiền định không làm được không? Chúng ta đã thấy các thiền sinh ở Tây phương gặp những thương tổn sâu sắc gây ra từ sự đổ vỡ của hệ thống gia đình Tây phương, những chấn thương thời thơ ấu và sự hoang mang trong xã hội hiện đại thường xuyên biết bao. Liệu pháp tâm lý nhắm đến nhu cầu chữa lành theo những đường lối có định hướng và mạnh mẽ, cải sửa và sáng tạo một ý thức lành mạnh về bản ngã, giải trừ những sợ hãi và ngăn chia, tìm kiếm một cách thức sáng tạo, yêu thương và trọn vẹn để sống trong thế giới này.
Chúng ta đều đã công nhận rằng những vấn đề này không thể bị tách biệt khỏi đời sống tâm linh. Chuyện đó không giống như chúng ta sắp xếp tâm lý mình cho ổn thỏa rồi vạch ra kế hoạch đạt tới niết bàn. Khi thân, tâm, trí và tinh thần ta mở rộng, mỗi lớp mới ta gặp phải đều phát lộ cả sự tự do và lòng từ bi lớn lao hơn cũng như những lớp vi tế và thâm sâu hơn của ảo tưởng nằm bên dưới. Công cuộc thiết thân và công cuộc thiền định sâu thẳm nhất thiết phải tiến triển cùng nhau. Cái mà thực tập kiểu Mỹ phải tiến đến công nhận là nhiều vấn đề sâu sắc mà ta phát hiện trong đời sống tâm linh không thể được chữa lành duy chỉ bằng thiền định. Những sự vụ như bị lạm dụng từ bé, thói nghiện, các khó khăn về tình yêu và tính dục đòi hỏi sự hỗ trợ kỹ lưỡng, có ý thức và liên tục của một người chữa trị khéo léo mới giải quyết được. Trong những cộng đồng tâm linh lớn, vị minh sư, lạt-ma, hay đạo sư hiếm khi có thời gian hướng dẫn cặn kẽ để ta vượt qua một tiến trình như vậy. Nhiều đạo sư cũng không có kỹ năng trong việc xử trí những lĩnh vực này. Một số thậm chí còn không thể tự mình giải quyết chúng nửa kia.

Ngược lại, liệu pháp tâm lý hiện đại tốt nhất giống hệt như một tiến trình thiền định chia sẻ, nơi nhà trị liệu và thân chủ ngồi bên nhau, học cách chú tâm tới các phương diện và những chiều kích của cái bản ngã mà có lẽ thân chủ ấy không thể tự mình chạm đến được. Hơn cả sự tập trung thâm sâu của nhiều bài tập thiền định, liệu pháp tâm lý có phẩm chất của sự thẩm tra và khám phá. Trong hình thức thiền định nối kết này, nhà trị liệu liên kết việc lắng nghe, ý thức, cảm nhận với nhau và có thể hướng vị thân chủ đến những cách chú tâm sâu sắc hơn vào gốc rễ của sự đau khổ, những vướng mắc và khó khăn của họ. Tôi đã được lợi lạc theo cách này bằng việc thực hành với vài nhà trị liệu xuất sắc cho phép tôi thấu hiểu và chữa lành những cấp độ tâm và trí mà tôi chưa bao giờ chạm đến trong nhiều năm thiền định.
Ngay cả Mahasi Sayadaw vĩ đại, thiền sư người Miến Điện lừng danh nhất, cũng công nhận rằng các thiền sinh phương Tây phải đối diện với những vấn đề mới này. Lần đầu tiên giảng dạy ở Mỹ, ngài đã cảm thán rằng có quá nhiều thiền sinh dường như đang đau khổ với một phạm vi các vấn đề không quen thuộc với ngài ở châu Á. Ngài gọi nó là “đau khổ tâm lý”. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng vậy, trong cuộc đối thoại với các nhà tâm lý học phương Tây, ngài đã bộc lộ sự chấn động trước mức độ mâu thuẫn gia đình, tổn thương và tự trọng thấp nảy sinh trong cuộc thực tập của người Tây phương. Những vấn đề này phải được giải quyết.

Rất thường xuyên, niềm tin sai lầm rằng chỉ cần thực tập cầu nguyện và thiền định đủ chân thành là tất cả những thứ cần để chuyển hóa đời họ đã ngăn các đạo sư và thiền sinh hưởng lợi từ những giáo huấn hữu ích của tâm lý học phương Tây. Không may, nhiều thiền sinh của nền tâm linh phương Đông và phương Tây đã được hướng dẫn để tin rằng nếu họ có trải qua các khó khăn, ấy chỉ là vì họ đã không thực tập đủ lâu hoặc đang không thực tập đúng theo những giáo huấn được hướng dẫn kia.
Niềm tin sai lệch thứ hai là các thiền sinh giỏi nên có khả năng tự mình đối diện toàn bộ đạo trình tâm linh và việc quay sang cầu viện một người bên ngoài là chỉ dấu của sự yếu đuối hay thất bại. Điều nay đang đe dọa một số cộng đồng cảm thấy rằng việc chuyển sang các phương pháp bên ngoài như tâm lý học phương Tây đồng nghĩa với việc chấp nhận rằng hệ thống và đạo sư của họ đã không có đủ lời giải đáp. Sự hoang mang về vị thế của liệu pháp tâm lý trong thực tập phát sinh từ một ý niệm sai giả rằng “tâm linh” và “trần thế” là hai cõi tách biệt, rằng tâm linh là “cao hơn” và trần thế “thấp hơn”. Ta có thể đã được dạy rằng các trải nghiệm mà ta có ở cấp độ “tâm linh” trong thiền định, như thể bằng ma thuật, sẽ có quyền năng chuyển hóa mọi cấp độ khác trong hiện hữu của ta. Theo đó, nếu ta có một sự “thức tỉnh” lớn trong thực tập Phật giáo hoặc trải nghiệm về ân sủng hay sự hiệp nhất với thần thánh trong cuộc thực tập tận tâm của Kitô giáo hay Ấn giáo, ta sẽ nghĩ điều này đã đủ để biến đổi thị kiến của ta, chữa lành tâm ta và đưa ta hòa nhập với những chân lý sâu xa nhất.

Lý do cho niềm tin này là khi kinh qua một trải nghiệm lớn lao như vậy, ta cảm thấy sự hài hòa kỳ tuyệt và sự âm vang nào đó của cảm giác ấy sẽ vẫn còn mãi trong ta suốt thời gian dài. Tuy nhiên những trải nghiệm như vậy trong hành trình tâm linh chỉ đánh dấu sự thành công ban đầu, không tránh khỏi, trải nghiệm ấy sẽ vòng trở lại, đòi hỏi ta phải học cách tích hợp hoàn toàn từng nội quán mới vào trong quá trình đời sống của mình. Trong tiến trình này chẳng có cấp độ nào cao hơn hay thấp hơn, tuyệt không có chuyện lĩnh vực này lại thiêng liêng hơn lĩnh vực khác. Chỉ có việc gặp phải bất cứ kiểu co rút, sợ hãi và đồng nhất hóa nào đó gây ra đau khổ cho ta và việc khám phá một sự tỉnh thức và tự do từ chúng mà thôi.
Thực tế, nhu cầu giải quyết các vấn đề xúc cảm thiết thân của ta là quy luật trong việc thực tập tâm linh hơn là ngoại lệ. Ít nhất một nửa các thiền sinh tại khóa tu thường niên ba tháng của chúng tôi thấy rằng bản thân không thể thực hành Thiền Minh Sát truyền thống vì họ gặp phải quá nhiều buồn đau, sợ hãi, tổn thương không giải quyết nổi và cả công việc tiến triển dở dang trong quá khứ, cái giờ đây trở thành cuộc thiền định của họ. Trong mọi truyền thống, ngay cả những người Tây phương tìm cầu chân lý thành công nhất cũng sẽ, sau nhiều giai đoạn thiền định mãnh liệt và nội quán sâu sắc, lại đối mặt với những khuôn mẫu của khổ đau, sợ hãi và vô thức trong toàn bộ những phần khác của cuộc đời. Ta có thể trải nghiệm sự thấu hiểu và bình an trong thiền định, nhưng khi ta quay lại những vấn đề của đời sống thường nhật hay về thăm gia đình hoặc thậm chí rơi vào lưới tình, đột nhiên những kiểu đau khổ, bấn loạn, chấp trước và ảo tưởng cũ có thể trở nên mạnh mẽ như trước đây. Ta phải tìm thấy những cách để bao hàm chúng vào đạo trình của mình.

Mới đây, đạo sư Tây phương thành công trong một cộng đồng Ấn giáo lớn chuyển giao trách nhiệm giáo huấn cho hai môn đệ lâu năm. Mau chóng, nhiều xáo động và mâu thuẫn đã khởi phát. Một môn đệ lâu năm đã bắt đầu lạm dụng vai trò của anh ấy, người kia thì xa cách và không nhạy bén. Trong những cuộc họp sau đó, việc trở nên rành rành là không chỉ những thiền sinh lâu năm mới có những vấn đề như vậy. Nhiều thiền sinh trung thành miễn cưỡng phát biểu rằng chính đạo sư của họ, dù không lạm dụng, cũng không nhạy bén, xa cách và vô năng một cách đau đớn. Với một sự ngay thẳng toàn vẹn tuyệt vời, sau ba mươi năm giảng dạy, ở tuổi bảy mươi tư, vị đạo sư này đã quyết định bắt đầu liệu pháp tâm lý để định hướng lại những vấn đề trong đời ông.
Sau nhiều thập kỷ trải nghiệm với những thực tập phương Đông ở phương Tây, chúng ta hiện giờ đã bắt đầu thấy khá rõ ràng các hậu quả của việc không bao hàm lĩnh vực của các vấn đề cá nhân trong việc thực tập. Phần lớn thảo luận trong chương tiếp theo, Trang Phục Mới của Hoàng Đế, sẽ cứu xét cách những thiếu sót như vậy, với những hậu quả rất tai hại trong một số trường hợp, có thể xảy tới trong mối quan hệ của các đạo sư và các cộng đồng. Vì các vấn đề của đời sống cá nhân thường là nguồn đau khổ và bấn loạn lớn nhất, nguồn chấp trước sâu sắc nhất và ảo tưởng lớn nhất của mình, nên chúng ta sợ hãi chúng và có thể vô thức dùng thực tập tâm linh để tránh né việc giải quyết. Các thiền sinh nhất định sẽ thất vọng biết bao khi họ rời am cốc và tu viện của mình (Phật giáo hay Kitô giáo) rồi thấy rằng sau mười hay mười lăm năm, họ vẫn không thực sự đối diện được với đời mình, không đối diện được những sợ hãi và những lĩnh vực đau khổ gốc rễ đã giới hạn và níu chân họ.

Một nhà trị liệu có kỹ năng có thể đề xuất những thực tập và công cụ chuyên biệt cho việc giải quyết những lĩnh vực đau khổ nhất đời ta. Người ấy có thể đem tới cho một vấn đề hoặc khó khăn kiến thức về các khuôn mẫu thường thấy, những tiến trình phát triển chuyên biệt và những sự phòng thủ không lành mạnh đã tạo ra phần lớn sự đau khổ trong nền văn hóa Tây phương. Sự quen thuộc của nhà trị liệu với các hệ thống gia đình, các đức tin, các câu chuyện và những sự đánh đồng nằm dưới những vấn đề này tạo ra khả năng giải phóng chúng trong vòng an toàn của những cuộc gặp gỡ đều đặn cam kết tập trung vào bất cứ lĩnh vực đời sống khó khăn nào. Có nhiều loại ví dụ về cách liệu pháp tâm lý đã hỗ trợ những người có liên quan tới việc thực tập tâm linh. Hãy để tôi thuật lại một vài ví dụ như thế.
Một thiền sinh nọ đã lưu lại một cộng đồng tâm linh suốt nhiều năm mà không hề tự tin rằng anh có thể thành công với việc kiếm được một sinh kế bên ngoài cộng đồng ấy, anh cũng sợ hãi nguy hiểm và hoang mang về tiền bạc, thấy nó là phi tâm linh và Cuối cùng, khi nhiều bạn bè anh đã ổn định nghề nghiệp và lập gia đình, anh nhận ra mình muốn được trợ giúp. Thoạt tiên anh đã tìm sự cố vấn chỉ để cân nhắc là mình nên ở lại cộng đồng ấy hay rời đi và thử kiếm công việc nào đó. Nhưng việc cố vấn đã đưa anh đối diện với những nỗi sợ hãi, bất an và hối tiếc sâu hơn về cách anh đã sống. Quá trình trị liệu cho thấy đời anh đã bị thống trị quá mức do sự phản ứng của anh trước người cha là một nhà kinh doanh lạnh lùng. Anh khám phá ra một kiểu sống tránh né chuyện tiền bạc, thành công và thấy được việc này đã bị nhầm lẫn với đời sống tâm linh của mình như thế nào. Điều này đã diễn tiến suốt nhiều năm. Rốt cuộc, khi đối diện với nỗi sợ hãi và phản ứng này, anh đã hiểu rằng mình có nhiều năng khiếu và nhiều chọn lựa chưa dùng đến. Anh rời khỏi cộng đồng đó, vào trường nghệ thuật và đã trở thành một nhà thiết kế rất thành công. Anh vẫn thiền định và đang phục vụ trong ban quản lý cộng đồng cũ, nơi giờ đây anh có thể mang tới cho cộng đồng ấy và việc thực tập một sức mạnh mới thay vì sự bất an.

Một thiền sinh khác đã trải qua mười năm đời mình để du lịch và thiền định ở Ấn Độ và Nhật Bản, đã quyết định thử trị liệu sau một loạt những quan hệ đầy đau khổ. Trị liệu của anh là một tiến trình lâu dài nhằm tháo gỡ việc bị lạm dụng thời thơ ấu, nỗi sợ hãi và ẩn ức về tính dục cùng sự xấu hổ và giận dữ sâu sắc. Suốt nhiều năm thiền định, anh đã tránh né thành công những vấn đề này, nhưng mỗi lúc cố thiết lập một mối quan hệ thân mật, anh đều bị cuốn trôi bởi chúng. Anh nhận ra phần lớn cuộc đời, thậm chí cả chuyện thiền định của anh, đã là một phản ứng với việc bị lạm dụng thời bé kia như thế nào. Khi trị liệu, anh đã bắt đầu tập trung vào sự khao khát sâu sắc dành cho tình yêu thương, nỗi xấu hổ và sự hoang mang về tính dục của mình. Với anh, đó là một tiến trình chậm chạp trong việc tin tưởng vào mối quan hệ gần gũi của việc trị liệu. Anh dừng việc du lịch và mặc dù vẫn đang học hỏi về những mối quan hệ thân mật, giờ đây anh hạnh phúc hơn và hoàn thiện hơn bất cứ lúc nào trong quãng đời trưởng thành của mình.

Một nữ thiền sinh khác, người đã quay sang dùng liệu pháp tâm lý giữa cuộc rèn luyện tâm linh của cô, đã bắt đầu thiền định khi còn rất trẻ. Cô từng là một học viên đầy khát vọng yêu thích sự bình lặng của thiền và sự nuôi dưỡng của cộng đồng, nhưng phần nào đó cô cũng thụ động, bấp bênh và cả thẹn. Khi tuyên bố rằng cô muốn trở thành một người dạy thiền, đạo sư của cô nói với cô rằng cô cần có nhiều sự trưởng thành về nhân cách trước khi có khả năng làm vậy. Ông gợi ý rằng cô nên thiết lập một sinh kế nuôi thân bên ngoài cộng đồng thiền và đồng thời nên thăm dò sự nhút nhát và bất an nội tại của mình với một nhà trị liệu nữ đáng kính trong cộng đồng của cô. Ngay sau khi bắt đầu trị liệu, chuyện trở nên rõ ràng rằng sự thật là cô đã được nhận nuôi, điều mà cô đã lơ đi trong đời sống tâm linh của mình, một chìa khóa cho phần lớn cá tính thụ động trong cô. Cảm giác vô giá trị, buồn đau và hoang mang trào ra khi cô nhìn vào cái nút thắt thời thơ ấu của mình. Cô bắt đầu hỏi cha mẹ nuôi, những người đã nhận cô lúc hai tuổi, và qua một quá trình tìm kiếm lâu dài, cô đã có thể tìm được mẹ đẻ của mình. Một cuộc hội ngộ đẫm lệ dù khó khăn đã mở màn cho sự khởi đầu một cuộc đời mới với cô. Cô nhận ra rằng mình là một người con gái và là một thiền sinh đầy trách nhiệm để đảm bảo mình sẽ không lạc nhà lần nữa. Nhưng giờ đây, nhờ việc tiếp tục vừa trị liệu vừa thiền định, lần đầu trong đời, cô đã bắt đầu tìm được cách riêng và tiếng nói riêng của chính mình. Khi cá tính cũ được giải phóng, một không gian rộng lớn của sự tự do mới đã mở ra trong đời cô. Cô bắt đầu một tiến trình trưởng thành và đơm hoa thực thụ mà có thể ngày nào đó sẽ đưa cô trở thành một thiền sư giỏi.

Khi không hoàn thành được những trách nhiệm phát triển cơ bản trong đời sống xúc cảm của mình hoặc vẫn hoàn toàn vô thức trong mối quan hệ với cha mẹ và gia đình mình, ta sẽ thấy rằng mình không thể dấn sâu vào thực tập tâm linh được. Không giải quyết những vấn đề này, ta sẽ không thể tập trung suốt quá trình thiền định, hoặc ta sẽ thấy mình không thể mang những điều mình đã học được trong thiền định vào cuộc tương tác với những người khác.
Dù các kiểu co rút hoặc ý thức không lành mạnh về cá tính có gốc rễ của chúng trong thời thơ ấu của chúng ta hay thậm chí trong những khuôn mẫu xa xưa hơn của nghiệp lực, chúng sẽ tiếp tục lặp lại trong đời ta và đời con chúng ta nếu ta không thể đối mặt. Đơn giản là: Thật không đúng nếu cho rằng chỉ có thời gian mới chữa lành chúng được. Trên thực tế, qua thời gian có thể chúng sẽ cố thủ tốt hơn nữa nếu ta cứ mãi phớt lờ.
Bởi vì sự nhận diện không tự động dịch chuyển từ chiều kích này sang chiều kích khác trong đời ta, sự ngăn chia vẫn tồn tại trong những nỗi sợ hãi, những thương tổn và những phòng tuyến sâu sắc nhất của chúng ta. Theo đó, ta sẽ gặp những bậc thầy tao nhã trong những trà lễ mà vẫn cứ hoang mang và chậm lụt trong những liên hệ thân mật, hoặc các hành giả yoga có thể hòa tan thân mình vào ánh sáng, nhưng lại có trí huệ tan biến khi bước vào chợ.

Khi so sánh những thực tập của liệu pháp tâm lý với thiền định, quan trọng là phải công nhận rằng mọi kỹ thuật chỉ là những công cụ để học hỏi và bản thân chúng không bao giờ kết thúc. Hệt như việc thiền định và cầu nguyện nuôi dưỡng những thực tập về sự chú tâm và cân bằng, về sự thẩm tra, về sự từ bỏ và buông xả, tất cả những điều này có thể được định hướng nhờ một cộng sự có kỹ năng trong một cung cách đầy ý thức và đặc biệt áp dụng cho những lĩnh vực khó khăn trong đời ta. Ta có thể gọi việc này là liệu pháp tâm lý. Ta phải học cách công nhận khi đời sống tâm linh của mình có thể được lợi lạc từ điều này. Hệt như việc thiền định thâm sâu đòi hỏi một đạo sư có kỹ năng, nhiều lúc đạo trình tâm linh của ta cũng đòi hỏi một nhà trị liệu có kỹ năng. Chỉ có một sự chú tâm sâu sắc tới toàn bộ đời mình mới có thể cho ta khả năng yêu thương trọn vẹn và sống một cách thong dong được.
Sigmund Freud đã viết rằng toàn bộ mục đích công việc của ông chính là kích hoạt người ta học cách yêu thương và cách trao cho địa cầu này một công trình có ý nghĩa. Thi sĩ Rilke người Đức diễn tả điều đó thể này: “Đối với một người yêu thương người khác: có lẽ đó chính là trách nhiệm khó khăn hơn hết… cái công trình mà với nó mọi công trình khác chỉ là sự chuẩn bị” Nếu việc thực tập tâm linh không kích hoạt công năng của ta một cách thông tuệ, để yêu thương, làm việc và kết nối với toàn bộ đời ta, thì chúng ta phải bao hàm những hình thức thực tập mà chữa lành các vấn đề của mình theo những cách khác.

🍀🍀🍀🌼🍀🍀🍀

ĐẾN LIỆU PHÁP TÂM LÝ VÀ THIỀN ĐỊNH
TRÍCH: CON ĐƯỜNG TỪ BI – JACK KORNFIELD
Như Lôi dịch – NXB Đà Nẵng & Phuongnambook, 2020

Ảnh nguồn internet

Post: Thường An

SHARE: