Tìm hiểu về bát nhã không tuệ học

SHARE:

TÌM HIỂU VỀ BÁT NHÃ KHÔNG TUỆ HỌC

I.-Tánh không là tính cách duyên sanh
của tất cả các pháp.(327)

Tính cách duyên sanh của tất cả các pháp được nói rõ trong đoạn đối thoại sau đây của kinh Na Tiên Tỳ Kheo, một đoạn kinh mà hầu như tất cả chúng ta đều đã từng đọc qua. Xin trích ra đây vì đặc điểm dễ hiểu và dễ nhớ của nó: Vua Di Lan Ðà hỏi đại đức Na Tiên:

– Ðại đức nói không hề có cái ta và cái của ta như tà kiến và ngã chấp vẫn thường nhận lầm. Nếu không có cái ta thì ai thâu nhận các món cúng dường, ai tham thiền nhập định, ai đắc quả và nhập Niết Bàn, ai giữ giới, ai phạm giới, ai tạo nghiệp… Như thế có kẻ giết đại đức cũng không phạm tội sát sanh chăng? Ngay cả các đạo hữu của đại đức gọi đại đức là Na Tiên cũng không có nốt? Na Tiên đó là ai, đại đức nghe rõ chứ?

– Tâu đại vương, bần tăng đã nghe rõ.
– Người nghe đó có phải là Na Tiên không?
– Tâu đại vương, không phải đâu.
– Thế thì ai là Na Tiên? Cái gì là Na Tiên? Tóc trên đầu là Na Tiên chăng?
– Tâu đại vương, không phải.
– Lông, móng, răng, da, thịt, xương, gân… là Na Tiên chăng ?
– Tâu đại vương, không phải.
– Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Na Tiên chăng?
– Tâu đại vương, không phải.
– Hay năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức họp lại là Na Tiên chăng ?
– Tâu đại vương, không phải.
– Hay ngoài năm uẩn ra, còn có cái gì là Na Tiên chăng ?
– Tâu đại vương, cũng không phải nốt.

Sau đó, đại đức Na Tiên hỏi nhà vua:

– Chẳng hay đại vương đến đây bằng bộ hay bằng xe?
– Bạch đại đức, trẫm đến bằng xe.
– Ðại vương bảo ngài đến bằng xe, đó là ngài nói thật chứ?
– Bạch đại đức, trẫm nói chắc thật.
– Vậy xin đại vương cho bần tăng biết rõ về cái xe. Gọng xe có phải là xe không?
– Thưa không phải.
– Trục, bánh, căm, thùng, mui, gác chân… có phải là xe không?
– Thưa không phải.
– Hay tất cả các món ấy hợp lại và buộc chung là xe?
– Thưa không phải.
– Hay ngoài các món ấy ra, có một món nào khác gọi là xe?
– Thưa cũng không phải.
– Vậy cái gì là xe?

Vua không đáp được.

Sau đó đại đức kết luận: Ðúng như lời nữ Tôn giả Vajirà đã bạch với Ðức Thế Tôn khi ngài còn tại thế: ” Danh xưng xe sở dĩ có là do nhiều món đồ hợp lại mà giả thành. Nhiều thứ cơ thể hợp lại thì giả thành một vật gọi tên là chúng sanh”.

Ðó là điều được Bồ tát Long Thọ nói trong bài kệ:

Các pháp nhân duyên sanh
Tôi nói: tức là Không
Cũng gọi là giả danh
Củng là nghĩa Trung đạo.

Bằng thiền quán, một khi thấu đạt được tính cách duyên sanh này, mọi sự vật đều được nhìn thấy như là giả danh, giả hợp. Củng bằng cái nhìn trực quan ấy, các nhà Nam tông nói : ” Các pháp vô ngã”, còn trong ngôn ngữ các nhà Ðại thừa, thì: Các pháp đều vô tự tánh

Tánh cách duyên sanh, vô ngã, vô tự tánh ấy được nói rõ hơn trong bài kệ:

Cái này có thì cái kia có
Cái này không có thì cái kia không có
Cái này sanh thì cái kia sanh
Cái này diệt thì cái kia diệt.

Nhưng chúng ta tự hỏi trong một thế giới mà tất cả đều duyên sanh, đều không có tự tánh, đều vô thường sanh diệt sanh diệt trong từng niệm niệm như thế, thì đâu là khổ giải thoát, đâu là chỗ an thân lập mạng, đâu là chỗ quy về, đâu là hòn đảo kiên cố giữa đại dương trùng trùng sanh tử ? Trong ” ba cõi đều chẳng an ” , đâu là chỗ an toàn, đâu là cái mà kinh Lăng Nghiêm nói là ” không tùy thuộc nhân duyên, chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên “? Chỗ giải thoát đó, cái ” không phải nhân duyên” đó, đạo Phật gọi là Niết Bàn. Kinh điển Nam tông (kinh Udàna) nói về niết bàn như sau: ” Hỡi các Tỳ kheo, có cái không sanh, không khởi phát, không tăng mạo, không tùy thế. Nếu không có cái không sanh, không khởi phát, không tăng tạo, không tùy thế ấy ắt không có lối thoát nào cho cái có sanh, cái có khởi phát, cái có tăng tạo, cái có tùy thế. Bởi vì có cái không sanh, không khởi, không tạo, không tùy thuộc điều kiện, nên mới có lối thoát cho cái có sanh, có khởi, có tạo, có tùy thuộc

Cái Niết Bàn ấy được chứng nhập qua sự tu hành viên thông về nhĩ căn của Bồ tát Quán Thế Âm như sau (kinh Lăng Nghiêm): Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng mất đi tướng sở chỗ vào đã vắng lặng, hai tướng động tịnh rõ ràng chẳng sanh ra. Như vậy dần tiến thêm, cái nghe và chỗ nghe đều hết. Chẳng dừng lại nơi sự hết cái nghe và chỗ nghe, thì năng giác sở giác đều không. Không giác cùng tột tròn vẹn thì năng không và sở không đều diệt. Sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền. Tức thì vượt khỏi thế gian lẫn xuất thế gian, tròn sáng khắp mười phương, được hai đều tột bậc: Một là trên hợp với Bản Giác Diệu tâm của mười phương chư Phật, cùng với chư Phật Như Lai đòng một sức Từ; hai là, dưới hợp với mười phương chúng sanh trong sáu nẻo, cùng với tất cả chúng sanh đồng một Bi ngưỡng :. ” Niết Bàn ấy chính là Tánh không của hệ thống Bát Nhã:Chỗ thâm áo đây, nghĩa của nó là Không, là Vô tướng, là Vô tác,Vô khởi, Vô sanh, Vô Nhiễm, là ly, là tịch diệt, là Như, là pháp tánh thiệt tế, là Niết Bàn. Những pháp trên đây cùng một nghĩa” (phẩm Thâm Áo).

Nếu không có cái ” không sanh, không khởi, không tạo tác, không tùy thuộc” ấy nếu không có cái sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền ấy, thì đạo Phật không thể xác nhận được chính mình như là đạo xuất thế, và không có căn cứ cho sự tồn tại của chính mình. Bởi vì với Khổ đế và Tập đế, đạo Phật chỉ mới nêu lên vấn đề, và cách nêu lên vấn đề như vậy văn chương và các khoa học thế gian cũng đề cặp đến. Không có thêm Diệt đế và Ðạo đế, nghĩa là không có sự giải quyết vấn đề, thì đạo Phật cũng không có lý do để tồn tại.

Sức mạnh của đạo Phật nằm ở sự xác lập Niết Bàn, cái Niết Bàn không tùy thuộc sanh tử nên dầu ở trong sanh tử mà vẫn Niết Bàn, cái Niết Bàn siêu vượt khỏi cả xuất thế gian nên hằng ở cùng chúng sanh đòng một Bi ngưỡng “. Và chúng ta cũng thấy qua lịch sử đạo Phật, những thời kỳ chánh Pháp hưng thịnh rực rỡ nhất là những thời kỳ trong đó có nhiều người con của Phật khẳng định được và xác lập được cái Niết Bàn đó ngay tại giữa thế gian này. Ðó là điều kinh thường nói: Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, đó cũng là Tâm Ấn chư Phật, như ngài Bồ tát Quán Thế Âm đã diễn tả.

Il.-Không là sự trống rỗng của tất cả các pháp.(328)

Không (Sunya), Tánh Không (Sunyata) tiếng Anh là Void, Voidness), bao hàm nghĩa trống rỗng, trống không. Kinh điển Nam Tông nói:

Này các Tỳ kheo, phàm có sắc gì (thọ tưởng hành thức gì)quá khứ hiện tại vị lai, trong hay ngoài, thô hay tế, vị Tỳ kheo như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện ra trống không, hiện ra rỗng không, không có lõi cứng.

Sắc ví như đống bọt
Thọ ví bong bóng nước
Tưởng ví ráng mặt trời
Hành ví như cây chuối
Thức ví với ảo thuật
Phật thuyết giảng như vậy
Như lý nhìn các pháp
Hiện rõ tánh trống không .
(Bọt nước-Phẩm Hoa-tướng Ưng Bộ Kinh tập I I I)

Mắt, các sắc, nhãn thức, nhãn xúc là không tự ngã. Này Ananda, vì rằng thế giới là không tự ngã, không thuộc tự ngã nên thế giới là trống không, trống không là thế giới” .

(Trống không- Phẩm Channa- Tương Ưng Bộ Kinh tập I V- bản dịch của HT. Thích Minh Châu)

Thanh Tịnh đạo luận nói:” Người ấy thấy thế giới hiện tượng như là trống rỗng, trống không, hư huyễn như làng xóm trống vắng, như ảo tượng, như thành Càn thát bà…

(Tuệ thấy các sắc là đáng sợ, bản tiếng Anh, trang 755)

Kinh Ðại Bát Nhã nói: ” Này Xá Lợi Phât! Vì sắc rỗng không nên không có tướng não hoại, Vì thọ rỗng không nên không có tướng thọ nhận, vì tưởng rỗng không nên không có tướng biết, vì hành rỗng không nên không có tướng tác giả, vì thức rỗng không nên không có thức tri giác. Này Xá Lợi Phất ! Tướng rỗng không của các pháp vốn chẳng sanh chẳng diệt, chẳng cấu chẳng tịnh, chẳng tăngchẳng giảm…”

Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng với Bát Nhã Ba la mật.
(Phẩm Tu tập đúng- HT. Thích Trí Tịnh dịch)

Sự nhìn thấy thực tướng của các pháp như vậy được đạo Phật gọi là Tuệ. Ví dụ như trước khi được quả thánh đầu tiên, quả Nhập Lưu, hành giả trải qua những phàm tuệ, như: tuệ thấy danh sắc là vô thường, khổ, vô ngã; tuệ thấy sự sanh diệt của các sắc; tuệ kinh sợ thấy tội lỗi của các sắc v.v… Tuệ là một cái biết vượt trên sự đối đãi của ý thức chủ thể và đối tượng khách thể, chỉ đạt được thiền quán. còn ở mức độ lờ mờ, dò dẫm của ý thức, chúng ta có thể hình dung sự trống rỗng của các pháp bằng những diễn tả của khoa học vật lý hiện đại, mặc dầu cái biết của ý thức thì rất giới hạn vì không thể vượt ra ngoài sự phân chia giữa chủ thể và đói tượng, và ý thức cũng không thể biết được chính nó, sự sanh khởi và diệt mất của chính nó, đây là đìều phải nhờ thiền quán.

Nhà khoa học John W Garner viết trong cuốn nguyên tử hôm nay và ngày mai: Các thí nghiệm, tính toán của Rutherford và Bohr đã chứng minh một cách rõ ràng đến kinh ngạc rằng nguyên tử chủ yếu là khoảng không trống rỗng. Nếu như đường kính hạt nhân là 15cm thì với tỷ lệ đó, các electron gần nhân nhất cũng cách hơn 1km5, còn khoảng giữa đó là chân không.

Với một cái nhìn ở mức độ nguyên tử như vậy, một bức tường sẽ là trống rỗng, vì phần vật chất cứng đặc là quá nhỏ so với khoảng không, cũng như toàn bộ vũ trụ gần như trống rỗng vì mật độ vật chất quá rãi rác.

Theo Duy thức học, tùy theo nghiệp thức của mỗi loại chúng sanh mà thế giới của mỗi loài hiện ra sai khác. Vì tâm thức của chúng ta được cấu tạo như vậy, thì thế giới hiện ra với chúng ta là cứng đặc, trong khi ở mức độ nguyên tử, thì thế giới gần như là trống rỗng. Như con mối thì thế giới của nó chỉ là một chiều, một bề mặt bằng phẳng, dầu là đứng trước bức vách. Con chó thì chỉ thấy có hai màu đen trắng. Có những âm thanh và màu sắc siều tần mà con người không thể nghe, thấy. Con người chỉ cảm nghiệm được một hệ thống không – thời gian 4 chiều, còn có thể có các hệ thống nhiều chiều hơn thì đành không thể biết. Trong thiền định,con người kinh nghiệm những thế giới khác lạ so với giác quan thường nhật, ví dụ khi đưa tâm thức đến định Không vô biên xứ, thế giới chỉ còn là một ư không vô biên ,đến định Thức vô biên xứ , và với sự an trú lâu dài trong định đó, cái nghiệp ấy sẽ đưa người ấy đến cõi Trời Thức vô biên xứtương ứng với loại tâm thức thiền định như vậy.

Chúng ta không đi xa hơn, nhưng qua vài nhận xét đó cũng cho chúng ta thấy rằng, với một tâm thức được tinh luyện hơn, tinh vi hơn, trong sạch hơn, sự việc thế giới hiện ra là trống rỗng không phải là chuyện hoang đường. Và mặc dầu thấy được sự trống rỗng của tất cả các pháp chỉ là bước đầu của Trí Huệ bát Nhã, cũng đủ chữa lành cho mọi căn bệnh khổ đau vì tham đắm, bám chấp, vì các căn bệnh tham sân si vốn là tính tự nhiên ” của chúng sinh ở cõi Dục giới này.

Ill.-Không là sự vô thường của tất cả các pháp.

Vô thường là một trong ba pháp ấn của Nam tông, trong bất kỳ đoạn kinh nào của Nam tông cũng thấy nói đến vô thường. Ở đây, xin trích ra ít đoạn kinh Ðại thừa nói về vô thường.

Kinh Ðại thừa vô lượng nghĩa nói:” Rồi lại quán kỷ tất cả các pháp:niệm chẳng dừng, sát na sanh diệt. Lại thấy sanh, trụ, dị, diệt xảy ra đòng thời ” .

Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật đã nói. ” Vì pháp tánh là Không vậy. Thế tức là sắc thọ tưởng hành thức, 12xứ, 18 giới, phàm phu, 12 nhân duyên, 2 đế, 4 đế. tất cả đều Không . NHững pháp ấy, sanh ngay diệt ngay, vừa có vừa không, mỗi mỗi sát na liên tục như vậy. Trong một niệm có 90 sát na, trong một sát na trải qua 900 lần sanh diệt, cho nên tất cả các pháp hữu vi đều là không vậy :.

Luận Ðại Trí Ðộ nói:” Các pháp luôn luôn biến đổi, không một thứ gì có thể tồn tại trong hai sát na liên tiếp” .

Cũng bằng những diễn tả khoa học hiện đại, chúng ta có thể mường tượng phần nào về cái gọi là Tuệ thấy sự sanh diệt của danh sắc:

Electron, hạt quyết định tính chất đặc tính của nguyên tử, quay quanh hạt nhân với tốc độ hơn 160.000km/giờ.Thế giới nguyên tử là thế giới chuyển động và sanh diệt với tốc độ chóng mặt. Người ta đã biết hàng trăm hạt cơ bản đời sống chỉ ngắn ngủi từ **10-17–10-19* giây và sau đó phân rã thành hạt khác. Ddời sống của hạt Mezon-pi chỉ là 10-23* giây. Proton, hạt thuộc loại ” vững chắc” nhất, không bao giờ biến mất mà chỉ biến đổi, thì theo sự diễn tả của giáo sư la Smorodinsky: Proton là một xoáy nước dữ dội trong đó các Mezon-pi liên tục sanh ra và biến mất. Ngoài Mezon-pi, các phản nucleon xuất hiện và mất đi ở giữa cái mà chúng ta gọi là Proton .

Thiết tưởng, sự tìm hiểu về cơ cấu vật chất không trải ngược mà còn bổ ích cho sự tìm hiểu về tánh Không, vì kinh Ðại Bát Nhã nói: ” Phân biệt, tính lường, phá hoại tất cảpháp đến vi trần, trong đó chẳng được cứng chắc, do nghĩa này mà gọi là Bát Nhã Ba La Mật ” (phẩm Tam huệ).

Thế giới nguyên tử là một thế giới vô cũng chuyển động và sanh diệt trong từng sát na và thay vì nói rằng thế giới là chuyển động và vô thường, thì bằng một cái nhìn học Phật sâu sắc, chúng ta phải nói rằng: chính sự chuyển động vô thường (của sắc thọ tưởng hình thức) đã tạo thành thế giới.

Qua đến thế giới hữu cơ sinh vật cũng thế. Trong một ngày có bao nhiêu hồng huyết cầu chết và được thay thế, vì trong một tuần hoàn hồng huyết cầu đều được đổi mới. Có bao nhiêu tế bào óc trong khoảng 2 tỉ nơ-rôn chết đi và không được thay thế? trong thế giới của thức cũng thế, một giây có bao nhiêu niệm tưởngsanh ra và diệt mất? Ngay cả thức thứ tám, thức căn bản của toàn bộ thân tâm sanh tử mà ta không hề biết ( mà ngoại đạo thấy là đúng lặng nên cho đó là Thần Ngã), thức ấy cũng chuyển trôi như dòng nước chảy xiết. Ðức Phật nói về cái thức căn bản ấy như sau:

Thức Ðà Na vi tế
Hằng chuyển như nước xiết
Sợ người chấp làm Ngã
Ta thường chẳng khai diễn

KẾT: Ðạo Phật thấy rằng tất cả cõi đều rỗng không, vô ngã, sanh diệt trong từng niệm niệm. Cái thấy ấy phải gây ra sợ hãi và phản ứng đối với chúng sanh cố chấp trong cái ta và cái của ta, như kinh đã nói trước. Từ đó mà cho rằng đạo Phật chán đời. Ðạo Phật dạy phải thấy tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương như điển chóp ” . Cái thấy ấy không bị giới hạn trong năm huẫn của cõi này, không bị giới hạn trong khoảng một đời người, mà đó là cái thấy ở tầm mức vũ trụ, nên nó cũng không phải bị quan, không phải lạc quan. Khi đạo Phật nói ” chúng sanh ở trong vô thường mà cho là thường, trong bất tịnh mà cho là tịnh, trong vô ngã mà cho là ngã, trong vô sanh mà cho là sanh” , hay khi nói ” các chúng sanh do khả ái của mình, như con nai khát nước chạy theo bóng nắng mà tưởng là dòng suối “, điều đó cũng không phải là chán đời. Và trước một sự việc như con nai khát nước chạy theo bóng nắng mà tưởng là dòng suối, người đúng lại không phải là người bi quan, chán đời, mà chỉ là người trí. Còn người tiếp tục chạy cuồng bám đuổi theo cái vọng tưởng điên đảo rỗng không của mình đâu có phải là người lạc quan, tích cực” gì đâu, mà chỉ là người si mê đáng thương vậy.(329)

Trong những bài trước, chúng ta đã tìm hiểu Tánh Không chủ yếu theo hệ thống Nguyên thuỷ và Ðại thừa thủy giáo, chú trọng đến việc quan sát các hiện tượng, khảo sát theo mặt hình tướng để từ tướng đi vào Tánh. Từ đấy chúng ta tìm hiểu Tánh Không theo cái nhìn của Ðại thừa chung giáo, Ðại thừa rốt ráo, nghĩa là đi thẳng vào Tánh Không, không dựa vào tướng khách thể cũng như ý thức thể, không qua một quá trình phân tích các tướng để tìm ra Tánh.

Chắc cũng vì vậy mà sự việc khó hiểu hơn, vì không còn nương vào thức và tướng để tìm hiểu, như một Thiền sư Tào Ðộng hiện đại của Nhật đã nói:” Chỉ có trí huệ mới tìm thấy Trí Huệ ” (Shunryu Suzuki- Zen Mind, beginner’s mind). Âu cũng là nhờ một nỗ lực nghiêm túc phi thường nào đó, một trực quan nào đó về cái Toàn Thể, mà chúng ta có thể đi vào Ðại thừa. Nếu không, chúng ta sẽ không tương ứng được, mà đã không thông cảm được thì dĩ nhiên là hiểu lầm. Ví dụ như Ðại thừa nói: ” Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh...” thì chúng ta nghĩ ngay PG Ðại thừa là chán đời, là tiểu cực, là hư vô, là một thứ học thuyết Lão Trang nào đó. Nhưng với người hiểu biết, thì cái mộng huyễn bào ảnh đó là sị tích cực, là hư vô, là một thứ học thuyết Lão Trang nào đó. Nhưng với người hiểu biết, thì cái mộng huyễn bào ảnh đó là sự tích cực nhất đối với tất cả ba cõi, sự tích cực đó đã chứng tỏ trong cuộc đời của các vị Thiền sư, các vị Bồ tát. Phải nhờ một cái hiểu biết thực sự nào đó để đi vào Ðại thừa. Ví dụ trong kinh Viên Giác, khi muốn thâm nhập vào Viên Giác bằng 3 pháp Chỉ, Quán và Thiền, người ta phải biết Tánh Viên Giác thanh tịnh là cái gì: Nếu các Bồ tát ngộ Viên Giác thanh tịnh, thì y vào cái giác tâm thanh tịnh này mà biết tâm thức cùng căn trần đều do huyễn hóa, bèn khởi các huyễn để trừ các huyễn… Do quán thấy huyễn mà **bèn* trong bèn phát ra đại bi khinh an. Thế nghĩa là ngộ tánh Viên Giác rồi mới bắt đầu thực tu pháp Quán.

Phẩm thứ 2 của Ðại Bát Nhã cũng nói :Bồ tát tu tập đúng như vậy (đúng theo Tánh Không), đây gọi là tương ứng với Bát Nhã Ba La Măt . Phải biết tánh Không thực sự là gì thì mới tu tập đúng như vậy được, để mà tương ứng với Bát Nhã Ba la mật.

Củng vì vậy, nên trong những đoạn sau, khi tìm hiểu về Tánh Không, chúng ta không trích dẫn chứng minh bằng các thí dụ, lý luận vọng lập của ý thức thế gian, mà chỉ trích ra những đoạn kinh khác để tìm một sự tương đồng, hầu có thể tiếp tục công việc tìm hiểu.

lV- Tánh không là sự không thật có, không thể nắm bắt, vô sở hữu, Bất khả đắc của tất cả các pháp.

Những thành ngữ như vô sở hữu, bất khả đắc, tất cánh không, tất cánh viễn ly, vô sở trụ, không thủ không xã… hầu như trong bất kỳ trang nào của Ðại Bát Nhã cũng có, để chỉ tính cách không thật có, không thể nắm bắt, như huyễn, như mộng của tất cả ba cõi. Ðễ giải thích tính cách này có lẽ thành ngữ dường như hoa đốm giữa hư không của kinh Viên Giác là cụ thể, trực tiếp và dễ hiểu nhất:

Tãt cả chúng sanh từ vô thủy đến nay đủ thứ điên đảo, giống như người mê, lẫn lộn bốn phương, vọng nhận bốn đại làm thân tướng của mình, bóng dáng duyên ảnh sáu trần làm tâm tướng của mình, ví như con mắt bệnh thấy giữa hư không có hoa đốm và thấy có mặt trăng thứ hai.

Hư không vốn thật chẳng bao giờ có hoa đốm chỉ là người bệnh vọng chấp. Do vọng chấp cho nên chẳng những không biết được tự tánh của hư không mà còn lầm cho là hoa đốm thật có sanh. Do cái ” thấy – có ” hư vọng đó mới luân chuyển sanh tử. Thế nên gọi đó là vô minh.

Cái vô minh ấy không có thật thể. Như người trông mộng đến khi tỉnh dậy mới biết là không chỗ có. Như các hoa đốm trong hư không diệt mất giữa hư không, chẳng thể nói là có chỗ diệt mất. Vì sao thế? Vì không từng có chỗ sinh ra. Hết thảy chúng sanh vẫn ở trong chính cái Vô sanh mà vọng thấy có sanh diệt, thế nên gọi là sanh tử luân hồi. (Chương 1- Phẩm Văn Thù).

Trong chương 2, phẩm Phổ Hiền kết luận:

Biết huyễn tức lìa, chẳng khởi phương tện. Lìa huyễn tức giác, cũng không thứ lớp.”

Kinh Lăng nghiêm nói về sự vô sở hữu, như không hoa này như sau:

Chân tánh, hữu vi không
Duyên sanh nên như huyễn
Vô vi, không khởi diệt
Chẳng thật như không hoa
Ở giữa không thật tánh
Giống như lau gác nhau
Buộc, mở đồng một nhân
Thánh phàm không hai lối
Hãy xem tánh giao nhau
Có, không đều chẳng phải
Mê lầm là vô minh
Rõ thông đều giải thoát.

Chúng ta có thể kết luận cho mình rằng:Nếu biết tất cả pháp là hoa đốm vọng có sanh diệt giữa hư không, tức thì biết ngay được Tánh Không bổn lai thanh tịnh.

Bài kệ mở đầu kinh Lăng Già gồm trọn ý nghĩa toàn bộ kinh của Bồ tát Ðại Huệ tán thán Ðức Phật, bậc viễn ly tối thượng, bậc chứn gđược Niết bàn sanh tử chỉ là giấc mộng ngày hôm qua có thể kết luận cho đọan này:

Thế gian lìa sanh diệt
Như hoa trong hư không
Trí chẳng đắc có, không
Mà hưng tâm đại bi.
Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa khỏi tâm thức
Trí chẳng đắc có không
Mà hưng tâm đại bi
Xa lìa hẳn đoạn, thường
Thế gian hằng như mộng
Trí chẳng đắc có không
Mà hưng tâm đại bi
Rõ nhân pháp vô ngã
Phiền não và sở tri
Thường thanh tịnh vô tướng
Mà hưng tâm đại bi
Tất cả không Niết Bàn
Xa lìa giác, sở giác.
Hoặc có hoặc không có
Tất cả thảy đều lìa
Quán Mâu Ni tịch tĩnh
Ấy tức xa lìa sanh
Củng gọi là chẳng thủ
Ðời này đời sau Tịnh

V- Tánh Không nghĩa là tất cả pháp không sanh

Kinh Ðại Bát Nhã, phẫm Vô sanh: ” Ngài Tu Bồ Ðề nói: Sắc chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác sắc. Sắc tức là vô sanh, vô sanh tức là sắc. Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát thật hành Bát Nhã BLM quán các pháp như vậy thời thấy sắc không có sanh, vì rốt ráo tịnh vậy. Thấy thọ tưởng hành thức không có sanh, vì rốt ráo tịnh vậy. Nhẫn đến thấy Phật và Phật Pháp không sanh,vì rốt ráo tịnh vậy.Ngài Xá Lợi Phất nói: Cứ theo nghĩa của Tu Bồ Ðề nói mà tôi được nghe thì sắc là chẳng sanh, thọ tưởng hành thức là chẳng sanh, nhẫn đến Phật và Phật pháp là chẳng sanh” .

Tất cả các pháp rốt ráo không sanh” câu kinh được lập đi lập lại trong suốt bộ Ðại Bát Nhã. Ðó là câu thần chú đưa người tu học đến Vô sanh pháp nhẫn, đến Bờ bên kia của bậc Bãt thối chuyển, là tâm ấn của chư Phật ba đời: ” Ðức Phật dạy : Ðại Huệ!” Tất cả pháp chẳng sanh ” đó là đều chư Phật ba đời đồng nói ” (Lăng Già quyển 2)

Mở rộng thêm, chúng ta đọc thấy trong kinh Bồ Tát kiến thiệt: ” Tự thể các pháp chẳng phải từng có, sẽ có, hiện có. Như bóng trong gương chẳng phải có không, tự thể của sắc cũng vậy, chẳng phải đã có, sẽ có hay hiện có. Này Ðại vương! Sắc không có sanh cũng không có diệt, thọ tưởng hành thức không có sanh cũng không có diệt, như Niết bàn giới không có sanh không có diệt vậy .

Biết tất cả pháp đang sanh tức chẳng sanh, đó là: Quán Mâu Ni tịch tĩnh, ấy tức xa lìa sanh, cũng gọi là chẳng thủ, đời này đời sau tịnh ” , như bài kệ Lăng Già nói ở trên.

Chứng biết ” tất cả pháp không sanh” tức là chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn : Ðức Phật dạy:Thật không có người nào ở trong pháp sanh mà được Vô sanh Sanh Pháp nhẫn. Vì không đắc không thất, do đây mà được Vô sanh pháp nhẫn. Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Vô sanh Pháp nhẫn đó, là : vì tất cả pháp vô sanh nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp không đi không đến nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô thủ vô xã nên nhẫn như vậy,vì tất cả pháp vô sở hữu, không có thật nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô nhiễn như hư không nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp Như, như pháp tánh thiệt tế nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô phân biệt, vô tươngưng, vô ức niệm, vô hý luận, vô tư duy nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô tác vô lực hư vọng như ảo như mộng như bóng như vang như ảnh tượng như cây chuối rỗng như tụ mạt như bọt nước nên nhẫn như vậy. Nói mà nhẫn mà không có ai nhẫn và cái gì để nhẫn, danh từ ấy cũng bất khả đắc, bổn tánh tự ly. Nói nhẫn như vậy, tin hiểu thích vào, không nghi hoặc, không kinh sợ, không động mất, đầy khắp nơi thân rồi chánh thọ mà hành, chẳng chẳng được thân mình cũng không chỗ trụ. Ðây gọi là Bồ tát ở trong các pháp được vô sanh nhẫn cho đến chẳng hành tất cả tưởng vậy (Pháp hội Thiện Trụ ý thiên tử, phẩm thứ 6).

Ðó là chỗ kinh Duy Ma nói: Các pháp rốt ráo chẳng sanh chẳng diệt, đó là nghĩa vô thường. Năm thọ ấm trông rỗng, không, không có chỗ khởi, đó là nghĩa khổ. Các pháp rốt ráo không chỗ có, đó là nghĩa Không. Nơi ngã và vô ngã trọn chẳng thấy hai; đó là nghĩa vô ngã. Pháp xưa chẳng khởi, nay cũng chẳng diệt, đó là nghĩa Tịch Diệt Ðó là chỗ kinh Vô Lượng Nghĩa nói:Tất cả các pháp: tánh-tướng bổn lai không tịch, chẳng đến chẳng đi, chẳng sinh ra, chẳng diệt mất

Ðó là chỗ kinh Pháp Hoa nói: Chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng Trong kinh Potthapada thuộc Trường Bộ kinh, khi có một Bà la môn ngoại đạo hỏi đức Phật về sự sinh thành của thế giới, thế giới còn mãi mãi hay sẽ diệt mất, diệt rồi có lại sanh ra nữa chăng v.v…Ðức Phật đã không trả lời.

Ðức Phật đã không trả lời vì những lý do ở trên.
Không trả lời, vì tất cả pháp rốt ráo không sanh vậy.
Không trả lời, vì tất cả pháp rốt ráo Tịch Diệt, rốt ráo Niết Bàn vậy.
Không trả lời, vì: bổn lai vô nhất vật vậy.

Vl- Tánh không là tánh của tất cả các pháp  (332)

Chân Không chính là Chân Như, đó là kết luận của kinh Ðại Bát Nhã. Tánh Như, Chân Như, Như Như là để dịch chữ Tathata. Củng từ chữ Như (Tatha) này mà có danh từ Như Lai (Tathagata), Như Lai Tạng (Tathagatagarbha)…

Một lần nữa, chúng ta phải nhắc lại rằng ý thức không thể nào hiểu được Tánh Không, Tánh Như. Chỉ có Trí Huệ mới hiểu được Chân Không là Chân Như. Ý thức không thể nào hiểu được danh từ trông ra vẽ trái ngược nhau, đều chỉ biểu thị một thực tại. Làm sao có thể vừa nói Tánh Không là vô thường, nhân duyên sanh, vô tự tánh, rỗng không… lại vừa nói Tánh Không là Chân Như. Nếu không có Trí Huệ, thì đạo Phật dường như mâu thuẩn: tại sao cái Thực Tại ấy chỗ thì nói là Tánh Không, chỗ thì nói là Phật Tánh (kinh Niết Bàn), chỗ thì nói là trống rỗng, chỗ thì nói là Thật Tướng, chỗ thì nói là Như Huyễn, chỗ thì nói là Chân Như, chỗ thì nói tất cả pháp vô ngã,chỗ thì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh chỗ thì nói là Vô tâm (kinh Kim Cang), chỗ thì nói là Nhật Tâm (kinh Hoa Nghiêm)… Nếu không có trí huệ tổng trì thì chúng ta thấy các ý niệm ấy đều đối chọi nhau, thấy các tông phái đều trái nghịch nhau. Ðức Phật đã nói: Pháp Phật chỉ có một vị, một nghĩa.Kinh điển cũng nói: Chư Phật ba đời đều đồng một lời, đồng một miệng mà truyền thuyết Phật pháp. thế nên nếu có sự trái nghịch nhau, đói chọi nhau giữa các kinh điển, giữa các tông phái thì phải hiểu đó chính là sự mâu thuẫn lưỡng biên của ý thức phân biệt giới hạn của chúng ta, còn trong Trí Huệ tổng trì, thì tất cả kinh điển đều cũng một vị (như nước đại dương đều cùng một vị), tất cả các thừa đều ở trong Nhất Thừa, do từ một miệng, một lời của chư Phật, chư Tổ nói ra.

**
Tánh Như là tính cách không biến đổi, không sanh không diệt, bình đẳng nhất như, thanh tịnh một vị,tịch diệt không hai, thường trụ bất động của tất cả các pháp. Băc chứng đắc rốt ráo Tánh Như được gọi là Phật: ” Chư Ðại Bồ tát học Như đó được Nhất thiết chủng trí, được gọi là Như Lai ” (kinh Ðại Bát Nhã, Phẩm Ðạo Thọ). ” Ðức Phật rõ sắc tướng như là Như Tướng: chẳng hoại không phân biệt, không tướng không nhớ ghi, không hý luận,không đắc; sắc tướng cũng vậy, cũng chẳng hoại nhẫn đến cũng không đắc” (Phẩm Phật Mẫu).

Ðức Phật biết rõ tất cả pháp Như Tướng, đó là cái biết rốt ráo của viên thành thật tánh, vượt khỏi vọng tưởng của Y tha khởi và Biến thế sở chấp, đó là cái biết Như Như trong 5 pháp danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, Như Như của kinh Lăng Già. Biết rõ tất cả pháp Như tướng, đó là cái chánh kiến Như Thị (Tatha), Như Thực (yathablutam) của Tri Kiến Phật.

Có Phật hay không có Phật, tánh tướng vẫn thường trụ. Vì đắc tánh tướng đúng như thật mà Ðức Phật được gọi là Như Lai” (Phẩm Vãn tướng).Tất cả pháp Như Tướng là :” Sắc tướng Như, nhẫn đến Nhất thiết chủng trí tướng Như, một Như không hai không khác. Ðức Như Lai tướng Như chẳng lai chẳng khứ, Tu Bồ Ðề tướng Như chẳng lai chẳng khứ. Như Lai tướng Như tức là tất cả pháp tướng Như, tất cả pháp tướng Như tức Như Lai tướng Như. Laị đức Như Lai Như là tướng thường trụ, Tu Bồ Ðề Như cũng là tướng thường trụ. Như Lai tuớng Như không có chỗ ngại, tất cả pháp tướngNhư cũng không có chỗ ngại, đây là Như Lai tướng Như cùng tất cả pháp tướng Như là một Như không hai không khác. Tướng Như này vô tác, vô niệm, vô biệt, chẳng quá khứ chẳng hiện tại chẳng vị lai, các pháp Như tướng cũng vô tác, vô niệm, vô biệt, chẳng quá khứ chẳng hiện tại, chẳng vị lai(Phẩm Ðại Như).

Kinh Kim Cang Nói:” Như Lai là :tất cả pháp nghĩa Như ” .

Như là nghĩa Tịch Diệt : ” Bát Nhã ba la mật hiển thị Phật, thế gian tịch diệt. Hiển thị ngũ ấm thế gian tịch diệt nhẫn đến hiển thị nhất thiết chủng trí thế gian tịch diệt ” .(Phảm Vấn Tướng).” Này tu Bồ Ðề! Vì tướng duy nhất mà gọi là Nhất thiết chủng trí: đó là tất cả pháp tịch diệt tướng ” (Phẩm Tam Huệ).

Như là các pháp vốn rốt ráo giải thoát vì bình đẳng như mộng huyễn:” Sắc không phược (trói buộc) không thoát, thọ tưởng hình thức không phược không thoát. Tất cả các pháp đều không phược không thoát. vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược không thoát “(Phẫm Trang Nghiêm).

Như là tất cả pháp bổn lai thanh tịnh:” Tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh. Ở trong các pháp đó, nếu Ðại Bồ tát tâm thông đạt chẳng mê mờ, đó chính là Bát Nhã Ba la mật. Vì tất cả Pháp Như, pháp tánh,thiệt tế, thường trụ vậy” . (Phẩm Ðẳng Học). ” Ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới bất khả đắc vì rốt ráo thanh tịnh vậy” (Phẩm Xuất Ðáo).

Như là các pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng cấu chẳng tịnh:”Các hành sanh khởi không từ đâu lại, chẳng đi về đâu. Ðó là biết hành sanh diệt. Các hành chẳng sanh chẳng diệt, chẳng đến chẳng đi, chẳng tăng chẳng giảm, chẳng cấu chẳng tịnh. Ðó là biết hành Như” (Phẩm thiện Ðạt).

Như là các pháp bình đẳng:” Tướng các pháp bình đẳng ấy, ta gọi là Tịnh. Những gì là các pháp bình đẳng? Ðó là Như, bất dị, bất cuống, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế. Có Phật hay không có Phật, pháp tánh thường trụ, gọi đó là Tịnh ” (Phẩm Bình Ðẳng)

Như là các pháp tức là Pháp Tánh: ” Sắc tức là Pháp Tánh, thọ tưởng hành thức tức là Pháp Tánh” (Phẩm Thiện Ðạt).

Kinh Ðại Bát Nhã kết luận: ” Tãt cả pháp Như Tướng, đây gọi là Vô thượng Bồ đề ” (Phẩm thâm Áo).

Ðể hiểu rõ điều mà các vị thiền sư nói là ” tất cả các pháp, tánh tướng Như Như, đó là đại giải thoát” ,thiết nghĩ không gì bằng trích một đoạn ngữ lục, cho” tươi mát ” , gần gũi sống động với chúng ta hơn:” Thiền sư Vân Cư Hựu ” thượng đường: Tất cả âm thanh là âm thanh Phật! Gõ thiền sàng, nói:Phạm âm thanh tịnh suốt khắp khiến người thích nghé Lại nói: Tất cả sắc là sắc Phật! Bèn đưa Phật tử lên, nói: Hiện đây Phật phóng quang minh, soi rõ nghĩa Thiệt Tướng ! Người đã thấu hiểu, đầu đội vâng làm. Người chưa thấu đáo, hợp như thế rõ, hợp như thế tin! Rồi gõ thiền sàng, xuống tòa.

**
Kết Luận:

1- Qua năm bài báo, chúng ta có một số kiến giải chủ yếu về Tánh Không. Nói chủ yếu, vì không thể nói hết về Tánh Không, vì Tánh Không là Vô Lượng Nghĩa (kinh Ðại thừa Vô Lượng Nghĩa). Những giới thiệu sơ lược về tánh Không chỉ là một phần nhỏ của Văn Tự Bát Nhã, mục đích chính của loạt bài là gợi ý, gây cảm ứng về Bát Nhã Không Tuệ Học để độc giả trực tiếp đi vào kinh Ðại Bát Nhã, hầu có thể biết sự tu hành Bát Nhã, quán chiếu Bát Nhã là như thế nào, làm thế nào tu hạnh Bồ Tát theo Trí Huệ ba la mật… để có thể, không những đọc tụng mà còn thọ trì Bát Nhã trong mọi hoàn cảnh sống hằng ngày, đem lại lợi lạc cho mình và cho người. Có đi vào kinh Ðại Bát Nhã thì mới có thể lấy Trí Huệ Bát Nhã làm sinh mạng của mình trong biển lớn sanh tử : đó là Huệ Mạng của những ai tu hành chân chính, Bởi thế, giới thiệu Tánh Không là giới thiệu cái cứu cánh của đạo Phật :” Các pháp rốt ráo Không, chính đó là Niết Bàn” :(Thiện Ðạt).

2- Tánh Không nếu hiểu theo ý niệm và bị sa vào trong biển độc của thức thì rất dễ bị hiểu lầm thành một thực tại tĩnh động trống rỗng mà người xưa gọi là ngoan không, cái không vô ký. Kinh Viên Giác nói: Nếu lấy tâm luân hồi mà nhìn xem tánh Viên Giác, thì Viên Giác cũng thành sanh tử luân hồi.

Tánh Không chính là Ðại Bi. Nếu hành giả càng thâm nhập Tánh Không thì Ðại Bi càng tăng trưởng. Phẩm Xá Lợi nói : Trong Bát Nhã ba la mật xuất sanh đại từ đại bi của chư Phật. Ðại Bi chính là dấu hiệu để hành giả tự nhận biết mình thực sự đi vào Tánh Không. Và Ðại Bi càng thật là Ðại Bi thì càng có tính hoạt động, không ngơi nghỉ, không mệt mõi nhàm chán như Bồ Tát Qaún thế Âm chứng tỏ. Chính Trí Huệ thấu đạt Tánh Không và Ðại Bi sống động nảy sinh ra Phương Tiện Thiện Xảo, là toàn bộ đời sống, cách sống cứu độ của Bồ Tát ở trong cõi sanh tử.

Trí Huệ và Ðại Bi là hai cột trụ dựng nên Phật giáo Ðại Thừa. Tánh Không hay Bát Nhã là giải pháp duy nhất cho con đường Bồ Tát Ðại Thừa :Làm thế nào để có thể ở nơi sanh tử mà vẫn giải thoát, làm thế nào trụ trong giải thoát mà vẩn ở nơi sanh tử để cứu độ chúng sanh. Ởnơi sắc thọ tưởng hành thức, nghĩa là đồng sự đồng nghiệp với chúng sanh mà vẫn giải thoát vì soi thấy năm uẩn đều Không, và cũng từ Tánh Không mà xuất sanh Ðại Bi thương xót ở cùng và cứu độ tất cả. Cứu độ tất cả, hy sinh mọi đời mọi kiếp cho chúng sanh mà chẳng hề buồn giận mệt mỏi vì không thấy có người hy sinh cũng không có một ai được cứu độ, đó là Ðại Bi của Trí Huệ giải thoát thay vì là cái bi chật hẹp của ái kiến ràng buộc.

3- Người tu theo Tánh Không mà hiểu lầm thì dễ bỏ quên nhân quả, nghiệp báo. Trái lại, người càng thấu đạt Tánh Không nghĩa là càng có trí huệ thì càng thấy rõ sự hiện hành của nhân quả, càng đi đúng với Trì giới Ba la mật, càng không xâm phạm giới, nghĩa là không xâm phạm tâm Ðại Bi đã mỡ khai nơi mình. Có thể lấy ví dụ của người xưa, Tánh Không dụ cho tánh nước, nhân quả dụ cho sóng.Tánh Không không ngăn cảng con người tạo ra nhân quả, nhưng dầu có sóng nước vẫn nước, không vì có sóng mà nước mất đi bản tánh của mình, còn cái người tạo ra sóng, người ấy phải chịu sự nỗi chìm của nghiệp sóng do tự mình tạo ra. Hoặc lấy ví dụ Hư không và hoa đốm, không tạo ra hoa đốm, không bị nhiễm ô bởi hoa đóm, nhưng có ai tạo ra hoa đốm thì người ấy tự chịu lấy sự quay cuồng.

4- Chúng ta đang bưóc vào thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, một thế kỷ đặc trưng bằng một nền văn minh kỹ thuật xu hướng về việc hưởng thụ. Và hiện nay, chúng ta cũng đang thấy rõ cái giá phải trả cho việc hưởng thụ vô độ của mình: sự dễ dãi, thácloạn về văn hóa, sự buông thả về đạo đức, sự ứng xử với nhau bàng mưu mẹo chước thuật thay vì nhân cách chân thật, sự chìm ngập trong hình ảnh và nhãn hiệu, sự phá hủy môi trường sống là trái đất v.v…

Bi hoan hay lạc quan, chúng ta không bàn đến ở đây. Nhưng thiết nghĩ, nèn văn minh dầu, tiến theo lối nào và đến đâu, cũng không thể ra ngoài giới hạn cộng nghiệp của dục giới, không thể ra ngoài sắc thọ tưởng hình thức, nghĩa là luôn luôn nằm trong sự giải quyết của Trí Huệ Bát Nhã. Chính trong những thời điểm đặc biệt, trong những phiền não đặc biệt mà ý nghĩa ” độ tất cả khổ ách” của Trí Huệ Bát Nhã lại càng nỏi bật hơn bao giờ hết. Ở vào bất kỳ thời đại nào, văn minh và lịch sử chỉ được cứu độ khi chúng được đặt vào trong Thực Tướng Nghĩa của Bát Nhã BLM. Chỉ có cái nhìn “ tất cả pháp Như tướng” mới dập tắt hết mọi vọng tưởng điên đảo, không tạo thêm cho con người đủ thứ vọng tưởngnhư chạy đua hưởng thụ, chạy đua danh quyền, chạy đua vũ trang, chạy đua ” hòa bình” : ..Chỉ có cái nhìn ” tất cả pháp không sanh, tất cả pháp không diệt ” mới làm dừng lại sự chạy cuồng của con người, như Ðức Phật đã vĩnh diễn dừng lại so với kẻ sát nhân vì học đạo là Angulimala. Chỉ có cái nhìn” nhất thiết pháp Không ” mới giải được mọi thứ ma túy, dầu ma túy ấy là thuốc, hay ma túy ấy là danh lợi, tài năng và sắc đẹp, hay đó chỉ là một bản ngã mền như gió nhẹ như hương được dung dưỡng nơi chốn thâm sơn cũng cốc của tứ đại con người. Chỉ có lời tuyên bố của Ðức Phật ” 49 năm ta chưa từng nói một chữ” hay lời nói của một thiền sư ” dầu còn một chữ Như, ta cũng mửa hết nó ra” mới dẹp trừ mọi lăng xăng loạn tưởng, mọi mưu toan tác, ý lập ra đủ thứ học thuyết-đều kẹt trong vòng danh tướng, đều là lý luận vì không thể vượt ngoài có không, thường đoạn…- để đưa tâm thức con người đến chỗ ” ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt ” , từ đó mới có ra thân khẩu ý để thực sự làm lợi ích cho người.

5- Bộ Ðại Bát Nhã dành riêng nhiều chương để ca ngợi Bát Nhã (Bát Nhã là mẹ của chư đại Bồ Tát, hay sanh thành như chư đại Bồ Tát, một ngày tu hành Bát Nhã thì đầy đủ cả Phật pháp-Phẩm Thâm Áo). Thật vậy, Bát Nhã gồm nhiếp tất cả công cuộc độ mình và độ người, là chỗ an trụ thanh tịnh cho mọi đại nguyện của một vị Bồ Tát.Không phải là không có lý do khi chúng ta thấy hầu như tất cả các bậc Long Tượng của đạo Phật đýu xuất sanh từ Bát Nhã Không tuệ Học: Long Thọ, Milarepa, Huyền Trang, Huệ Năng, Thái Hư, các Thiền sư TH và VN.. Và chỉ mới đây thôi, cụ Lê Ðình Thám, người có công nhất trong việc chấn hưng PG vào thế kỷ này, người đã đào tạo ra một thế hệ tăng tài làm rường cột của giáo hội cho đến ngày nay, đã thay đõi hẳn cuộc đời mình-từ một ông bác sĩ Ðông Dương thành một Phật tử đem trọn đời mình hiến dâng cho sự phục hưng của đạo Phật-chỉ vì đọc được 4 câu kệ của ngài Huệ Năng nói về Tánh Không viết trên vách của một ngôi chùa ở Ngũ Hành Sơn.

Tánh Không là sức mạnh, là Quan Âm Lực (Phẩm Phổ Môn), là sự vô bố úy, ánh sáng của con mắt Trí Huệ và ngọn lửa trong trái tim Ðại Bi của những người con Phật, đã từng và mãi mãi đi đầu , giương cao ngọn cờ giải thoát trên những làn sóng phế hưng của lịch sử, khiến cho ngọn đèn chánh pháp luôn luôn khôngthể nào dập tắt, không thể nào hủy hoại, không thể nào lu mờ vì bất cứ lý do gì, dục lạc hay tham sân si vô nghĩa của thế gian, ở trong cũng như ở ngoài.

SHARE:

Để lại một bình luận