Năm tà kiến, Ba thiện xảo và Bốn thân Phật

SHARE:


ĐẠI ẤN THIỀN XÓA TAN BÓNG TỐI CỦA VÔ MINH
Karmapa thứ Chín Wangchug Dorje với bình giảng khẩu thuyết của
Beru Khyentze Rinpoche – dịch từ tiếng Tây Tạng và biên tập bởi Alexander Berzin
Văn phòng Dịch thuật Thư Viện những Tác phẩm và Văn thư Lưu trữ của Đức Dalai Lama
Việt dịch: Đương Đạo – Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2001 TTT-19-2545/09-01

1. MỞ ĐẦU 21. Chú tâm vào Hơi thở và Ba giai đoạn An định Tâm thức
2. PHẦN MỘT NHỮNG SƠ BỘ 22. Loại bỏ Siết chặt và Buông lỏng
3. Quy y, Lễ lạy và Bồ đề tâm 23. Trạng thái Định tâm thực sự và Ba Ân điển
4. Thiền định Vajrasattva 24. PHẦN BA THIỀN QUÁN (QUÁN CHIẾU)
5. Cúng dường Mạn đà la 25. Nhìn vào Tâm an định
6. Guru Yoga 26. Nhìn vào Tâm chuyễn động hay khởi tưởng
7. Cái Chết và Vô Thường 27. Nhìn vào Tâm phản chiếu những hình tướng và vào Tâm trong tương quan với Thân
8. Nghiệp và Luật Nhân Quả 28. Nhìn vào cùng lúc Tâm an định và Tâm chuyễn động
9. Những Tai Hại của Sanh Tử 29. Nhận ra Bản tánh của Tâm an định
10. Sự Quí Giá Được Tái Sanh Làm Người 30. Nhận ra Bản tánh của Tâm chuyễn động hay Tâm nghĩ tưởng
11. Điều Kiện Nguyên Nhân Cho Thành Công 31. Nhận ra Bản tánh của Tâm phản chiếu cảnh vật và của Tâm trong liên hệ với Thân
12. Điều Kiện Chính Yếu 32. Nhận ra cùng lúc Bản tánh của Tâm an định và Tâm chuyễn động
13. Điều Kiện Khách Quan 33. PHẦN BỐN NÂNG CẤP SỰ THỰC HÀNH CỦA CON
14. Điều Kiện Trực Tiếp 34. Phối hợp Đại Ấn với những Thực hành khác và Bốn hoạt động
15. PHẦN HAI THIỀN ĐỊNH 35. Năm tà kiến, Ba thiện xảo và Bốn thân Phật
16. Những tư thế căn bản của Thân và Tâm 36. Ba chỗ con có thể lạc và Bốn chỗ con có thể mất tánh Không
17. Chú tâm trên một Đối tượng Thấy 37. Những Điểm nguy hiểm nơi sự vật có thể khởi lên như kẻ thù và những nhiễu loạn khác
18. Những Đối tượng Giác quan khác 38. Những Lợi Lạc của những thực hành và những giai đoạn và những con đường theo Đại Ấn
19. Trừ bỏ Hôn trầm và Xao động 39. Những định nghĩa kết thúc
20. Chú tâm Không Đối tượng 40. LỜI CHÚ CỦA TÁC GIẢ

NĂM TÀ KIẾN, BA THIỆN XẢO 
VÀ BỐN THÂN PHẬT

Hơn nữa, để loại bỏ những nhiễu loạn con cần xa lìa sự hấp dẫn ám ảnh với những sự vật như những đối tượng tốt và xấu.

Một cách quy ước, quả là có những hành động thiện và bất thiện. Nhưng một cách tối hậu, những sự vật này không có hiện hữu nội tại, chân thật như vậy. Nếu bạn nhìn một số hành động tự thân là thiện, bạn bị lôi cuốn ám ảnh bởi chúng, hay những cái khác là “tội lỗi”, bạn cố đẩy xa chúng, sự bám chấp như vậy sẽ ngăn chặn tiến bộ của bạn.

Cũng thế, vì ba thời quá khứ, hiện tại, tương lai không thể kiến lập được (như là thực có), con phải từ bỏ dù một ý nghĩ, “Tôi sẽ làm việc từ ngay lúc này cho đến khi Giác Ngộ.” Hãy xác quyết rằng có Giác Ngộ (tức thời) ở trong mỗi khoảnh khắc.

Một cách quy ước, có quá khứ, hiện tại, tương lai. Nhưng nếu những phạm trù này có thực thể như vậy, bấy giờ quá khứ vẫn luôn luôn ở trong quá khứ và không bao giờ đã xảy ra. Tương lai thì luôn luôn chưa tới và không bao giờ tới. Và hiện tại phải mãi mãi như vậy và không bao giờ chấm dứt. Bởi thế, dầu bắt buộc phải phát Bồ đề tâm, bạn không nên quan niệm làm việc từ bây giờ cho đến Giác Ngộ khi điều này đặt nền trên một ý tưởng bạn đang thực ở trong một “hiện tại” và Giác Ngộ là ở đâu xa “ngoài kia” trong một tương lai có thực xa xôi.

Do chính sự kiện những tư tưởng khởi lên và tan biến đúng trong cùng một khoảnh khắc, Giác Ngộ là ở trong mỗi khoảnh khắc. Nếu bạn rõ biết về điều này, đó gọi là “Giác Ngộ trong khoảnh khắc, Giác Ngộ tức thời”. Trong những thừa khác, bạn đạt đến Giác Ngộ bằng một tiến trình kéo dài tích tập công đức trải qua ba vô số kiếp. Đã hẳn sự chứng ngộ tánh Không và Giác Ngộ là kết quả của tích tập công đức, nhưng vì tâm điều khiển thân và ngữ, thiền định Đại Ấn về tâm là một thừa tối thượng để tích tập công đức lớn lao một cách nhanh chóng. Giác Ngộ tức thời hay trong khoảnh khắc không có nghĩa rằng vô minh bị trừ diệt một cách thần diệu mà không có nguyên nhân và rằng bạn không cần thực hành đức hạnh, thiền định hay không làm cái gì để trở nên Giác Ngộ. Nó có nghĩa rằng trong mỗi khoảnh khắc bạn có thể Giác Ngộ nếu bạn rõ biết tánh thường trụ chân thật của thực tại trong khoảnh khắc đó. Và nếu bạn không biết, bạn rớt lại trong sanh tử.

Chớ có chấp tâm con là tầm thường và đời thường. Hãy nhận ra rằng từ thời vô thủy nó vốn là bản tánh của năm trí huệ nguyên sơ.

Trí huệ nguyên sơ biết sự bất nhị của hình tướng và tánh Không, biết hai cấp độ của chân lý, biết tánh thường trụ của thực tại. Nó là hiện trạng tự nhiên của tâm bạn và có năm phương diện hay chức năng, tức là năm loại trí huệ nguyên sơ. Khi bạn không rõ biết chúng và phủ lên chúng sự chấp vào thực có, chúng biến thành những mê lầm chánh.

Trí huệ nguyên sơ biết tánh Không của thực tại thì phân biệt đúng đắn giữa cái giả dối và cái chân thật. Bị che phủ bởi chấp thật, bạn muốn thoát khỏi những đối vật mà bạn cho là có thật và như thế bạn có tức giận. Không biết trí huệ nguyên sơ như tấm gương bạn tự che phủ mình thành nhỏ hẹp và làm mờ tối những đối vật thay vì rõ ràng phản chiếu hình tướng của chúng, và như thế bạn có vô minh ngu si. Không biết trí huệ nguyên sơ thấy tự tánh của sự vật là tánh Không, bạn chọn một số đối vật là có bản chất đáng ưa hơn những vật khác. Đó là tham muốn. Không biết trí huệ nguyên sơ thấy sự bình đẳng của những sự vật trong sự bất nhị của tánh Không và hình tướng…, bạn tự xem mình tốt hơn những người khác và như thế là kiêu mạn. Không biết trí huệ nguyên sơ thành tựu không nỗ lực mọi sự, bạn bị ám ảnh bởi sự thành công của những người khác và tự mình không làm gì. Đó là đố kỵ. Hay bạn giữ những sở hữu cho riêng bạn và không chia xẻ hay để cho những sự vật trôi chảy. Tuy nhiên, khi bạn thấy rằng tánh của những mê lầm khác nhau này là một với tánh của năm trí huệ nguyên sơ – và tất cả năm trí huệ đó trọn đủ trong một mê lầm – bạn chuyển hóa được mê lầm thành trí huệ nguyên sơ.

Chớ chấp vào những uẩn, những xứ, những giới như là bất tịnh. Hãy chắc chắn rằng từ vô thủy chúng đã là những hóa thần thiền định nam và nữ và những Bồ tát nam và nữ.

Những uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Những xứ là sáu căn và những đối tượng của chúng. Những giới là sáu căn, sáu trần, sáu thức.

Trong những tantra khác nhau có nhiều hệ thống liên kết, xem mỗi một cái trên tương đương với một hóa thần thiền định nam hay nữ. Một hệ thống như vậy về một trăm hóa thần được tìm thấy trong “Tử Thư Tây Tạng” (Bardo Thodol). Vào lúc chết những hóa thần này được phát hiện và xuất hiện rõ ràng. Nếu bạn nhận ra bản tánh thật sự của các ngài, bạn được giải thoát, nhưng nếu bạn sợ hãi bạn sẽ chạy trốn vào một trong những tái sanh bất hạnh.

Hãy từ bỏ mong muốn được giải thoát chỉ từ nghe và tư duy. Hãy quyết tâm được giải thoát từ sức mạnh của tham thiền và của những ban phước của Guru.

Để tu hành tâm thức của bạn và chiến thắng khổ đau, bạn phải dựa vào sức mạnh của nghe, tư duy và tham thiền. Trước hết bạn phải nghe một giải thích đúng đắn về những giáo lý, chẳng hạn về bản tánh của tâm, và rồi tư duy về chúng để xác định nghĩa của chúng. Tư duy là giống như nhìn vào tâm và chất vấn, phân tích về nó tận cùng. Cuối cùng, khi bạn đã đạt được một xác quyết về bản tánh của tâm, bạn phải tham thiền và thực sự kinh nghiệm nó là thế nào. Nhờ sự giúp đỡ của Guru của bạn, bạn tiến đến chỗ nhận ra nó từ tham thiền của bạn. Như thế cả ba cái ấy (Văn, Tư, Tu) cần thiết để Giác Ngộ.

Nói cách khác, hãy từ bỏ năm ý niệm méo mó sai lầm về những đối tượng, thời gian, bản tánh (của những mê lầm của con), hiện trạng thực sự của năm uẩn và trí huệ phân biệt (đến từ nghe, tư duy và tham thiền).

Có thân trong tư thế căn bản và tâm ban đầu nhất niệm tập trung, nhìn vào bản tánh của tâm an định khi nó an định và của tâm chuyển động khi nó chuyển động, đó gọi là thiện xảo lúc bắt đầu tham thiền. Thoát khỏi mệt mỏi (bằng cách nghỉ ngơi một tí) khi có sự hợp nhất trọn vẹn của tâm tập trung và thân trong tư thế căn bản thì gọi là sự thiện xảo cắt đứt khỏi sự phân tán ở chặng giữa. Không bị ám ảnh hay hấp dẫn bởi bất cứ ân điển tuyệt vời nào khởi lên (như lạc, sáng tỏ hay vô niệm) thì gọi là thiện xảo trong sự trau dồi những ân điển vào lúc chót. Con cần tự tu hành ba thiện xảo này.

Bốn thân Phật có thể được hiểu theo tâm.

Những hình tướng khác nhau đến với tâm và từ tâm là Hóa thân. Trí huệ của Hóa thân là Báo thân. Tánh Không của Hóa thân là Tự Tánh thân hay Thân Tự Nhiên và sự không tách biệt của cả ba cái là Pháp thân hay Thân Chân Lý.

Rất thường, những định nghĩa Pháp thân và Tự Tánh thân đổi lẫn nhau. Một thí dụ tương tự nổi tiếng để hiểu ba thân này là Pháp thân như hư không, Báo thân như mặt trăng và Hóa thân như ảnh phản chiếu của mặt trăng trong nước. Bạn không thể có mặt trăng mà không có hư không và không thể có ảnh mặt trăng phản chiếu độc lập với mặt trăng. Cũng thế tánh Không, tánh giác và hình tướng xuất hiện của tâm là tương quan và không thể tách lìa.

Khi con đã xác định rằng đây là hiện trạng thực sự của mọi sự vật – hình tướng, hiện hữu, sanh tử, Niết Bàn – và đã xác quyết rằng mọi sự thoát khỏi mọi cực biên hiện hữu do tâm tạo tác ra và lìa sanh, diệt và trụ, bấy giờ hãy đặt tâm con nhất niệm vào một trạng thái thoát khỏi mọi mong cầu và lo toan, lấy và bỏ. Đây là điểm thứ hai của nâng cấp thực hành

SHARE:

Trả lời