SHARE:
Như chúng ta đã thấy, ta cần được giải thoát khỏi bản tính mê lầm của sinh tử và đạt được giác ngộ tối thượng. Tuy nhiên, ta có thể suy nghĩ một cách chính đáng: “Nếu tôi hay những người tầm thường như tôi cố gắng, thậm chí hết sức nỗ lực, làm thế nào chúng tôi có thể đạt được giác ngộ?” Thực ra, nếu người nào đó thực hành với nỗ lực to lớn, người ấy không thể không đạt được giác ngộ! Vì sao? – bởi mọi hình thức chúng sinh hữu tình, trong đó có chúng ta, đều sở hữu nguyên nhân chính yếu: trong chúng ta có tinh túy của sự giác ngộ. Trong sâmadhirâjasûtrâ (Tam Ma Địa Vương Kinh) (1) nói:
“Tinh túy giác ngộ (sugatagarbha) (2) hoàn toàn thấm đẫm tất cả chúng sinh.”
Trong mahâparinirvânasûtrâ (Kinh Đại Bát Niết Bàn) bản ngắn nói:
“Tất cả chúng sinh đều có tinh túy giác ngộ (tathâgatagarbha).(3)”
Ngoài ra, trong Kinh Đại Bát Niết Bàn bản dài nói:
“Giống như bơ hoàn toàn thấm đẫm sữa, tương tự như thế, tinh túy giác ngộ thấm đẫm tất cả chúng sinh.”
Trong mahâyâna-sûtrâlankâra (Đại Thừa Trang nghiêm Kinh Luận) cũng nói:
“Như thị (tathata) thì đồng nhất đối với tất cả và mỗi một chúng sinh”; nó là cái gì thuần tịnh. Vì thế bản tính giác ngộ (tathâgata) là tinh túy đích thực của tất cả chúng sinh.”
Các lý do khiến tất cả chúng sinh đều có tinh túy giác ngộ này là:
Điều này cũng được nói đến trong mahâyanottaratantraśâstra (Mật điển Vô song):
“Mọi sinh loài luôn luôn có tinh túy giác ngộ bởi sự tỏa khắp của kâya (5) (thân) giác ngộ viên mãn, bởi sự không thể phân chia của chân tính của các sự việc (vạn pháp) và bởi sự hiện hữu của một tiềm năng.”
“Những người có tiềm năng giác ngộ có thể được tóm tắt là thuộc về năm nhóm: những người bị cắt đứt (6) tiềm năng, những người có tiềm năng không rõ ràng, tiềm năng Thanh Văn, (7) tiềm năng Phật Độc giác (8) và tiềm năng Đại thừa. (9)”
Những người này được mô tả bằng sáu đặc điểm – không có cảm thức về phẩm giá hay cảm thức xấu hổ, không có lòng bi mẫn v.v.. Đại sư Vô Trước vĩ đại đã nói về họ như sau:
Do bởi sáu khiếm khuyết này, họ hoàn toàn chưa sẵn sàng cho việc giác ngộ.”
Trong Đại Thừa Trang nghiêm Kinh Luận cũng nói:
“Chắc chắn là một số người chỉ dấn mình vào những ác hạnh. Một số thường xuyên hủy hoại những gì tốt đẹp. Những người khác thiếu những đức hạnh có lợi cho sự giải thoát. Họ thiếu tất cả những gì có thể là tốt lành ở một cách nào đó.”
Mặc dù những người có những đặc điểm ở trên được coi là ‘có tiềm năng bị cắt đứt”, điều này ám chỉ họ phải trải qua một thời gian dài dằng dặc trong sinh tử nhưng không có nghĩa dứt khoát là họ đã bị chặt đứt mọi cơ hội để đạt được giác ngộ. Nếu nỗ lực, họ có thể đạt được giác ngộ. Về điều này mahâkarunâpundarîkasûtra (Kinh Đại Bi Liên Hoa) có nói:
“Ananda! Nếu có người thiếu sự thuần thục tâm linh để đạt được niết bàn tung một đóa hoa lên không trung trong khi chỉ nghĩ tưởng đến Phật quả, người ấy sẽ có kết quả là niết bàn. Ta quả quyết rằng người đó sẽ đạt được niết bàn và sẽ thể nhập cùng đích tối thượng của nó.”
Số phận của họ phụ thuộc vào hoàn cảnh. Những người tu tập dưới sự dạy dỗ của các vị Thầy Thanh Văn, nối kết với các Thanh Văn, tìm kiếm Kinh văn của Thanh Văn, hiện có tiềm năng Thanh Văn, thì hiển nhiên là sẽ thực sự trở thành các Thanh Văn. Cũng thế, những người gặp các hoàn cảnh liên quan đến Phật Độc giác hay Đại thừa sẽ đi theo con đường Phật Độc giác hay Đại thừa.
Đây là những người sợ hãi sinh tử, tin tưởng ở Niết bàn nhưng ít lòng bi mẫn. Các Kinh điển nói:
“Họ sợ hãi khi nhìn thấy những khổ đau của sinh tử. Họ có niềm tin thật rõ ràng ở Niết bàn. Họ không hoan hỉ khi làm việc vì hạnh phúc của chúng sinh. Tiềm năng Thanh Văn có ba biểu hiện này.”
Đây là những người mà ngoài ba đặc điểm trên, họ có sự tự tin to lớn, giữ kín về các vị Thầy của họ và thích sống cô tịch. Có câu nói rằng :
“Như thế người hiền trí nên nhận ra tiềm năng Phật Độc giác: họ nhàm chán sinh tử, tha thiết Niết bàn, ít lòng bi mẫn, vô cùng tự tin, giữ kín về các vị Thầy của mình và thích sống trong sự cô tịch.”
Hai nhóm người trên – những người có tiềm năng Thanh Văn hay Phật Độc giác – phát khởi hai khả năng (13) để thực hành (yâna). Những người phát triển hai khả năng này sẽ được hưởng những kết quả tương ứng nhưng những gì họ thành tựu không phải là nirvâna (14) (Niết bàn). Vào lúc thành tựu, do bởi một điều kiện vô minh tiềm ẩn, họ sẽ thừa hưởng và hiện hữu trong một thân tinh thần vi tế, có được nhờ hoạt động (nghiệp) bất nhiễm của họ trong quá khứ. Tuy nhiên, họ tin chắc rằng trạng thái thiền định sâu xa bất nhiễm mà họ đang có là niết bàn và họ đã đạt được niết bàn. Thực ra, đó không phải là Niết bàn thực sự và điều này có thể dẫn đến sự tra vấn về tính chất thích đáng của việc Đấng Chiến Thắng Thành tựu Siêu việt (15) giảng dạy hai con đường này cho họ.
Thực ra, việc Đức Phật giảng dạy cho họ là hoàn toàn đúng đắn. Hãy xem xét ví dụ dưới đây.
Vài thương gia từ cõi Diêm Phù Đề (16) khởi hành đến vùng đất ở bên kia đại dương để tìm châu báu. Vào một thời điểm trong chuyến du hành, trong khi vượt qua vùng đất hoang vu, họ cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức đến nỗi nghĩ rằng họ sẽ chẳng bao giờ có thể tìm ra châu báu. Họ muốn quay trở về. Tuy nhiên, bằng các năng lực thần thông, người chỉ huy của họ đã tạo ra một cung thành vĩ đại ở đó họ có thể nghỉ ngơi và hồi phục sức mạnh của mình.
Giống như những thương gia trong ví dụ, chúng sinh có quyết tâm yếu ớt sẽ hoàn toàn sợ hãi khi nghiên cứu về trí tuệ vĩ đại của chư Phật và có thể cảm thấy công việc thành tựu Phật quả thật đáng sợ, vượt quá khả năng của những người như họ. Vì cảm thấy sợ hãi, họ sẽ chẳng bao giờ đảm đương nổi sự giác ngộ hay họ sẽ (bắt đầu nhưng) từ bỏ công việc đó. Bằng cách giảng dạy hai con đường – con đường Thanh Văn và Phật Độc giác – Đức Phật làm cho họ đạt được trạng thái thanh thản, an lạc của Thanh Văn hay Phật Độc giác. Trong saddharmapundarîkasûtrâ (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa) có nói:
“Cũng thế, tất cả các Thanh Văn, có cảm tưởng rằng họ đã đạt được Niết bàn, được chư Phật chỉ dạy rằng thực ra ‘Niết bàn’ của họ là một sự nghỉ ngơi.”
Khi các Như Lai biết rằng các vị này đã nghỉ ngơi và thanh thản trong trạng thái của một Thanh Văn hay Phật Độc Giác, các Ngài khuyến khích họ tiếp tục thành tựu Phật quả. Bằng cách nào? Các Ngài gây hứng khởi cho họ bằng thân tướng toàn hảo, lời nói thanh tịnh và tâm thức cao quý của các Ngài: những tia sáng tuôn ra từ tim các Ngài, chạm vào thân tinh thần của các Thanh Văn và Phật Độc giác. Sau đó các Như Lai xuất hiện với thân tướng toàn hảo và nói những lời sau bằng ngữ thanh tịnh:
“Ồ các nhà sư. Chỉ bằng cách thực hiện những gì các ông đã làm, công việc không được thành tựu: công việc chưa hoàn tất. Niết bàn của các ông không phải là niết bàn. Các nhà sư! Hãy đến gần Như Lai và chú ý những gì Như Lai nói; hãy hiểu rõ lời dạy của ngài.”
Ngài thúc đẩy họ như thế. Điều này cũng được dạy trong các câu kệ của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa:
“Ồ các nhà sư! Như thế hôm nay ta đã chỉ dạy các ông rằng chỉ bằng điều này các ông sẽ không đạt được Niết bàn và để có thể đạt được Giác tính tinh túy của Đấng Toàn Trí, các ông phải phát khởi một con sóng nỗ lực cao quý và vĩ đại. Bằng cách làm như thế các ông sẽ thành tựu giác tính tinh túy toàn tri.”
Nhờ được thúc đẩy theo cách này, Thanh Văn và Phật Độc giác sẽ trau dồi trí lực hướng tới đại giác ngộ. Sau khi hành xử như các Bồ Tát trong vô lượng kiếp, (17) họ sẽ thành Phật. Chúng ta tìm thấy điều này được nói trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cũng giống như được nói trong lankavatarasûtrâ (Kinh Lăng Già):
“Bằng cách thực hành Bồ Tát hạnh, các Thanh Văn không đạt được Niết Bàn sẽ hoàn toàn thành Phật.”
Tóm tắt:
Tiềm năng Đại thừa được tóm lược bằng sáu chủ đề: phân loại, tính chất cốt tủy của chúng, các từ đồng nghĩa, các lý do khiến nó hơn hẳn các tiềm năng khác, các hình thức và tính chất riêng biệt của nó.
5a. Phân loại
Tiềm năng này có hai loại chính:
5b. Một phân tích về những tính chất cốt tuỷ của mỗi loại tiềm năng
Cả hai phương diện trên của tiềm năng Đại thừa khiến ta sẵn sàng thành tựu giác ngộ.
5c. Những từ đồng nghĩa với tiềm năng
Nó được gọi là “tiềm năng,” “chủng tử,” “yếu tố” và “bản tính đích thực”.
5d. Những lý do khiến tiềm năng này siêu vượt các tiềm năng khác
Các tiềm năng Thanh Văn và Phật Độc giác thì thấp thỏi vì để nhận ra những tiềm năng này ta chỉ phải diệt trừ che chướng ô nhiễm (phiền não chướng). (19) Tiềm năng Đại thừa thì siêu việt bởi chứng ngộ trọn vẹn của nó bao gồm sự diệt trừ cả hai che chướng. (20) Điều này khiến tiềm năng Đại thừa trở thành vô song, vượt xa, rất xa tất cả những tiềm năng khác.
5e. Những hình thức khác nhau của tiềm năng Đại thừa
Tiềm năng có thể được kích hoạt hay ngủ yên:
Tiềm năng được kích hoạt: các biểu hiện của nó thật hiển nhiên – “các kết quả được thành tựu một cách đúng đắn nhất.”
Tiềm năng ngủ yên: các biểu hiện không rõ ràng – “các kết quả không được thành tựu một cách đúng đắn nhất.”
Điều gì khiến cho tiềm năng được kích hoạt? Khi không gặp các điều kiện bất lợi và có sự hỗ trợ của các điều kiện thuận lợi, tiềm năng sẽ được kích hoạt. Ngược lại, tiềm năng vẫn ngủ yên. Có bốn điều kiện bất lợi:
Bốn điều kiện bất lợi:
Hai điều kiện thuận lợi:
5f. Những biểu hiện của tiềm năng này
Về các biểu hiện cho thấy sự có mặt của tiềm năng Bồ Tát này, dashadharmakasûtra (Kinh Mười Phẩm tính) có nói:
“Tiềm năng của bậc hiền trí, của các Bồ Tát, được nhận ra bởi những biểu hiện của nó, giống như lửa được nhận ra nhờ khói và nước được nhận ra nhờ sự hiện diện của con chim nước.”
Những biểu hiện này là gì? Các Bồ Tát có sự an bình tự nhiên và không giả tạo trong tất cả những gì các ngài làm hay nói, tâm các ngài không gian dối hay đạo đức giả và các ngài tràn đầy thương yêu và hỉ lạc trong những mối liên hệ với chúng sinh. Về điều này, trong Kinh Mười Phẩm tính có nói:
“Không bao giờ cộc cằn hay thô lỗ, vượt lên sự giả dối và đạo đức giả và tràn đầy thương yêu đối với tất cả chúng sinh: các ngài là những Bồ Tát.”
Ngoài ra, như sự mở đầu cho bất kỳ hành động nào các ngài làm, các ngài phát khởi lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh; các ngài chân thành khát khao Giáo pháp Đại thừa; các ngài sẽ đảm nhận một công việc khó khăn với sự nhẫn nhục, không bao giờ khước từ vì e sợ tầm vóc của công việc và các ngài thực hành đúng đắn và tuyệt vời những điều luôn luôn là nguồn mạch của đức hạnh, bản tính đích thực của sự toàn thiện siêu việt. (23) Trong Đại Thừa Trang nghiêm Kinh Luận có nói:
“Lòng bi mẫn đi trước hành động của các ngài – và những khát khao, nhẫn nhục và thực hành các đức hạnh đúng đắn nhất – các ngài nên được nhận ra qua những biểu hiện tiềm năng này của các ngài.”
Như thế, trong năm loại tiềm năng ở trên, tiềm năng Đại thừa là nguyên nhân trực tiếp và chính yếu để đạt được Phật quả. Các tiềm năng Thanh Văn và Phật Độc giác cũng là những nguyên nhân để đạt được Phật quả nhưng là những nguyên nhân xa hơn. Tiềm năng không rõ ràng thì đôi khi là một nguyên nhân trực tiếp, đôi khi là một nguyên nhân xa. Tiềm năng bị cắt đứt được coi là tượng trưng cho một nguyên nhân rất xa nhưng không phải là hoàn toàn không có khả năng giác ngộ: vì thế đó là một nguyên nhân vô cùng xa đối với sự giác ngộ.
Như thế ta đã nhận ra rằng, bởi có loại này hay loại khác trong những loại tiềm năng này, chúng sinh có tinh túy của Phật quả và điều này cũng được biểu lộ qua ba lý do ở trên. Cách thức thực sự mà họ sở hữu có thể được minh họa bằng các ví dụ: bạc hiện diện trong quặng bạc, dầu mè hiện diện trong những hạt mè hay bơ hiện diện trong sữa. Có thể lấy được bạc ở trong quặng. Có thể lấy được dầu trong các hạt mè. Có thể lấy được bơ trong sữa và cũng thế, có thể đạt được Phật quả ở trong chúng sinh.
Pháp Bảo Của Sự Giải Thoát
Gems of Dharma, Jewels of Freedom
Jé Gampopa
Bản dịch Anh ngữ từ tiếng Tây Tạng của
Ken và Katia Holmes
dựa trên những giảng nghĩa chi tiết theo truyền thống của Dòng Kagyü
Thanh Liên dịch sang Việt
Chú thích:
(1) sâmadhirâjasûtrâ: Tam Ma Địa Vương Kinh – quyển Kinh này có ý nghĩa to lớn bởi nó gắn liền với cuộc đời của ngài Gampopa. Ngài được coi là Bồ Tát Candraprabhakumara, phần lớn quyển Kinh nói về và phó chúc tương lai lâu dài của vị Bồ Tát này. Trong quyển Kinh này ta tìm thấy những tiên tri về sự xuất hiện sau này của ngài (là Gampopa) như một thầy thuốc tinh thông Giáo pháp.
(2) sugatagarbha (Phật tạng, Như Lai tạng, Phật tính) – xem chú thích ở Phần 3.
(3) tathâgatagarbha (Như Lai tạng) – xem chú thích ở Phần 3
(4) tiềm năng giác ngộ (TT: rigs) – một thuật ngữ khó dịch bởi những nghĩa khác nhau của nó. Thuật ngữ mang lại cho ta cảm tưởng về tiềm năng sẵn có, hầu như là điều gì đó hiện diện có tính chất di truyền: vì thế về sau này có được phân ra làm năm loại.
(5) Một giảng nghĩa về kâya được đưa ra trong chương 20. Cũng xem “Bản tính Bất biến”.
(6) tiềm năng bị cắt đứt – nghĩa đen là “cắt đứt”. “Bị cắt đứt” được sử dụng để tránh sự hàm ý, như được giảng trong bản văn, một tiềm năng giác ngộ bị cắt bỏ không thể thay đổi được.
(7) Thanh Văn (Phạn: śrâvaka, TT: nyan.thos) được dịch sát nghĩa là “những người lắng nghe” – lắng nghe Pháp là phương pháp chính yếu để học Pháp. Đây là những người nghiên cứu: xem định nghĩa theo sau trong bản văn.
(8) Phật Độc giác (Phạn: pratyekabuddha, TT: rang.sangs.rgyas) được dịch sát nghĩa là “những người tự-giác ngộ.” Đây là những Thanh Văn đã phát triển mạnh mẽ sự hiểu biết của mình và phạm vi khả năng thiền định: cũng xem định nghĩa trong bản văn.
(9) Đại thừa (TT: theg.chen) – “năng lực to lớn,” đôi khi được gọi là “đại thừa” (cỗ xe lớn). Điều này được đề cập chi tiết trong các chương sau. Đó là con đường mà những người kiên quyết giúp đỡ tất cả những hình thức chúng sinh hữu tình đạt đến giác ngộ.
(10) tự trọng: cảm thức riêng tư về sự đúng và sai đối với các hành động của ta.
(11) xấu hổ: tương tự như phẩm giá ở trên, nhưng có quan hệ đến phương diện công khai của những hành động của ta: hậu quả của chúng đối với những người khác.
(12) tiềm năng Thanh Văn Điều này không có nghĩa là tiềm năng là Thanh Văn. Nó có nghĩa tiềm năng phổ quát của Phật tính, được dùng theo cách các Thanh Văn sử dụng.
(13) khả năng – (yana – thừa) có nghĩa là “khả năng để mang vác” hay “phương tiện để..”. Xem chú thích trong mục 1 của chương này.
(14) nirvâna – có nghĩa là “chấm dứt đau khổ” – không ám chỉ một loại mà đủ loại trạng thái, từ sự hoàn toàn siêu vượt đau khổ và những nguyên nhân của nó (trạng thái A La Hán) cho tới sự sở hữu của cải trí tuệ và lòng bi mẫn của sự giác ngộ (Phật quả).
(15) Đấng Chiến Thắng Thành tựu Siêu việt – một cách dịch theo nghĩa đen của tiếng Tây Tạng bcom.lden.’das, là cách dịch từ bhagawan (Thế Tôn) trong Phạn ngữ.
(16) Diêm Phù Đề (Nam Thiệm Bộ Châu) – đại lục ở phía nam Núi Tu Di, trong bức họa thế giới cổ xưa. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi để chỉ hành tinh của chúng ta.
(17) vô lượng kiếp – một thuật ngữ được dùng để mô tả một khoảng thời gian dài của vũ trụ.
(18) các phẩm tính giác ngộ: các phẩm tính của các bậc giác ngộ thì không thể mô tả, vô số và không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, những phẩm tính chính yếu thường được nhắc đến là 4 vô úy, 18 phẩm tính khác biệt, mười năng lực (thập lực) và 32 dấu hiệu chính yếu (32 tướng tốt) của một đấng toàn hảo. Xem mahayanottaratantraśâstra (“Bản tính Bất biến”).
(19) che chướng ô nhiễm – tâm thái thô lậu và có hại ngăn che chân tính của tâm thức; chủ yếu bao gồm những tập khí tham, sân, si, ganh tị và kiêu ngạo, và tất cả những phạm trù phụ của chúng. Những tập khí này sinh khởi do bởi vô minh, ảo tưởng về bản ngã và sự nhị nguyên.
(20) Xem chú thích ở trên. Che chướng khác là che chướng nhận thức (sở tri chướng): tập quán vi tế của tâm không nhận ra chân tính của các sự việc và thay vào đó là nhận thức chia chẻ một cách tùy tiện thành hai – chủ thể và đối tượng.
(21) các điều kiện bất lợi – xem chương kế tiếp.
(22) khuynh hướng quen thuộc – một khuynh hướng về điều tốt lành, lòng bi mẫn v.v.. hiện diện bởi những tập quán được hình thành trong những hiện hữu trước đó.
(23) sự toàn thiện siêu việt (Phạn: pâramitâ – ba la mật) bao gồm việc đã “đạt tới bờ bên kia” (theo nghĩa đen), có nghĩa là các phẩm tính thực sự toàn thiện, và việc sẽ “đưa ta đến bờ bên kia,” nghĩa là sự phát triển những phẩm tính đó. Bờ bên kia là sự giác ngộ.
SHARE:
Ban biên tập website Thiện Tri Thức chúng tôi chân thành cám ơn các trang mạng, các tác giả cùng những cộng tác viên , các bạn đọc đã cho phép chúng tôi trích đăng và gửi bài tới trang nhà chúng tôi. Những ý kiến đóng góp và bài viết xin gửi về email [email protected].
Mong mọi sự tốt lành!
© Bản quyền 2021 THIỆN TRI THỨC | Thiết kế bởi TIGONSYS