TÂM NHƯ NÓ LÀ VÀ ĐỒNG KHỞI

SHARE:

Đoạn này của bản văn, “Những giai đoạn của thực hành ưu việt,” gồm hai đoạn: thứ nhất bàn luận tâm như nó là và thứ hai bàn về đồng khởi hay đồng hiện hữu. Sự giải thích ở đây không từ quan điểm kinh nghiệm tham thiền; thế nên chúng ta phải nghiên cứu nó với trí bát nhã (prajna).

Thật tánh của tâm

[213]     Đoạn về tâm như nó là giải thích tinh túy của tâm, bản tánh của tâm, và những tính cách xác định của tâm. Tính túy của tâm là quang minh, hay salwa. Chúng ta có thể giải thích rằng tâm thì giống như ánh sáng; tuy nhiên từ Tây Tạng có nghĩa “biết” hơn là ánh sáng. Tinh túy của tâm cũng là bình an, nghĩa là nó không có tư tưởng lan man và ý niệm.

[216]     Bản tánh của tâm là nó không được sinh ra, không an trụ và không diệt dứt. Nếu tâm là một sự vật cụ thể, nó sẽ được sinh ra, cuối cùng diệt mất, và giữa hai khoảnh khắc này, nó an trụ. Nhưng khi khảo sát cẩn thận chúng ta thấy nó không phải như vậy. Thế nên chúng ta có thể nói tâm không thật sự hiện hữu, tâm là trống không.

Bản tánh của tâm cũng là pháp giới (dharmadhatu), cõi giới của thực tại. Dhatunghĩa là “cái không chướng ngại.” Nếu chúng ta đang nói về không gian, chúng ta nói không gian là ở khắp nơi – không có chỗ nào không tìm thấy không gian. Cái gì có thể đi vào không gian, băng qua, nhưng không có cái gì bị không gian ngăn ngại. “Không chướng ngại” chỉ ra rằng có cơ hội cho bất cứ cái gì xuất hiện mà không bị ngăn ngại. Dharmadhatu là chỗ hoàn toàn thích hợp cho những lỗi lầm được từ bỏ và cho mọi phẩm tính tốt tăng trưởng. Nói tâm vừa là trống không và vừa là pháp giới nghĩa là nó không được thiết lập một cách cố hữu nội tại và thoát khỏi sanh ra, trụ lại và diệt mất.

[218]     Tính cách của tâm là nó xuất hiện như sanh tử và niết bàn. Bởi vì nó không phải là một thực thể cứng đặc, tâm có thể xuất hiện như sanh tử và niết bàn. Với người bình thường như chúng ta, xuất hiện như sanh tử và niết bàn có vẻ mâu thuẫn, nhưng không phải vậy.

Một bàn luận về cái thấy của trường phái Trung Đạo có thể giúp ta hiểu điểm này. Có hai phân nhánh của Trung Đạo là Svatantrika và Prasangika. Trong phái Svatantrika, những hiện tướng được xem là thực tại tương đối (hay quy ước) trong khi tánh Không là thực tại tuyệt đối (hay tối hậu). Trên cấp độ tương đối, những hiện tướng xuất hiện, nhưng trên cấp độ tuyệt đối, chúng trống không. Trong khi có một số mâu thuẫn trong sự trình bày của Svatantrika, tuy nhiên những giải thích thì có ích khi chúng ta đang bắt đầu hiểu tánh Không.

Cái thấy của Prasangika thì cao hơn của Svatantrika. Đối với các nhà Prasangika, tánh Không và hiện tướng thì không đối nghịch. Như Tâm Kinh nói, “Sắc là Không, Không là sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc.” Trong cái thấy này, sắc và tánh Không hiện hữu cùng nhau. Chúng có cùng bản tánh. Giống như hiện tướng của một con voi trong một giấc mộng. Khi voi xuất hiện trong giấc mộng, không có con voi ở đó thực sự. Sự không hiện hữu của con voi và hiện tướng của con voi có vẻ mâu thuẫn, nhưng thật ra chúng xảy ra cùng nhau.

Khi chúng ta ở trên con đường suy luận, chúng ta xem sắc và tánh Không giống như con voi xuất hiện trong một giấc mộng. Theo cách này, chúng ta đến chỗ hiểu sự vô tự tánh của nhiều hiện tượng khác nhau. Tuy nhiên khi chúng ta ở trên con đường tri giác trực tiếp, chúng ta nhìn thẳng vào tâm và thấy nó là tánh Không, là vô tự tánh. Tâm vô tự tánh dù chúng ta có đang nhìn nó hay không. Tâm đã ở đó từ thời sơ thủy, và từ thời sơ thủy nó đã là vô tự tánh. Nó vốn thoát khỏi sanh, diệt và trụ.

Đồng khởi

[220]     Từ lhenchig kyepa Tây Tạng được dịch là “đồng khởi” hay “đến cùng nhau”, như hai con sông hòa với nhau. Nó cũng có thể được dịch là “bẩm sinh”, bởi vì theo nghĩa đen nó là “sanh cùng nhau” (câu sanh). Đồng khởi ám chỉ sự kiện rằng trí huệ chứng ngộ thật tánh của những hiện tượng đã hiện hữu sẵn trong chúng ta. Nó không phải là cái gì cần được sanh ra mới. Chúng ta có trí huệ này, nhưng chúng ta không chứng ngộ nó. Bởi vì chúng ta không chứng ngộ những sự vật như chúng là, hay đại ấn, mà chúng ta khổ đau. Qua trí huệ đồng khởi, chúng ta kết nối với thực tại của những sự vật, thực tại ấy vốn hiện hữu trong chúng ta.

THUẬT NGỮ ĐỒNG KHỞI

[221]     Khi chúng ta nói đến đồng khởi, chúng ta không nói cái gì khác ngoài thật tánh của tâm. Như vậy, đồng khởi nghĩa là tịnh quang giống như không gian và nó trùm khắp tất cả sanh tử và niết bàn. Khi chúng ta nói đến đồng khởi, chúng ta cũng nói đến sự bất khả phân, của tánh Không và quang minh. Khi người bình thường như chúng ta hiểu điều gì về tánh Không của tâm, chúng ta không hiểu quang minh của nó, và khi chúng ta hiểu điều gì về quang minh của tâm, chúng ta không nắm được tánh Không của nó. Nhưng thật ra, tánh Không và quang minh của tâm hoàn toàn hòa nhập với nhau. Tánh Không của tâm không phải là một tánh Không phủ định quang minh – nó là sự không có nền tảng hoàn toàn của tâm. Và quang minh của tâm không làm cứng đặc khả năng biết của nó. Tánh Không và quang minh không mâu thuẫn chút nào. Chúng là đồng khởi.

Cái gì khởi sanh cùng nhau? Đó là những hiện tượng (pháp) và tinh túy của chúng, hay thực tại (pháp tánh). Chúng ta có thể giải thích điều này bằng cách nói rằng có những hiện tượng, gồm những sự vật vững chắc và những sự vật chuyển động, và cùng một thời gian, có thực tại. Đó là chúng ta kinh nghiệm sự vật như thế nào. Một cách khác để diễn tả điều này là nói rằng có sự xuất hiện của những hiện tượng, và đồng thời, có thật tánh của chúng, nó là tánh Không. Chúng ta có khuynh hướng xem những xuất hiện hay những hiện tượng là ở ngoài chúng ta, là có tự tánh, là những sự vật thật. Nhưng sự xuất hiện của những sự vật và tính như vậy của chúng – thực tại của chúng, tánh Không của chúng – không phải theo trật tự thời gian cái có trước cái có sau. Chẳng hạn, không phải sự vật hiện hữu trước và sau đó trở thành trống không. Đúng ra, sự xuất hiện của sự vật và tánh Không của chúng là đồng thời. Cũng không phải chúng ta đem lại sự đồng khởi này và tánh Không này thành hiện hữu khi ta tham thiền. Chỉ là chúng ta bình thường không nhận biết sự đồng khởi vốn là bản tánh của tâm và bản tánh của những hiện tượng. Qua tham thiền, chúng ta bắt đầu hiểu nó.

NHỮNG LOẠI ĐỒNG KHỞI

[222]     Có vài loại trí huệ đồng khởi. Trong kinh Đức Phật dạy và trong những luận của những thành tựu giả, trí huệ đồng khởi được chia thành trí huệ đồng khởi nền tảng, con đường và quả.

Trí huệ đồng khởi nền tảng là thực tại của quang minh và tánh Không; nó là tâm trong bản tánh căn bản của nó. Trí huệ này đã hiện hữu trong chúng ta từ thời sơ thủy, nhưng chúng ta đã không biết nó. Thế nên, chúng ta cần nghe lời chỉ dạy của một guru, suy nghĩ về điều đã được nghe, và tham thiền về cái chúng ta đã hiểu.

Trí huệ đồng khởi con đường là khi trí huệ đồng khởi được sanh trong chúng ta. Chúng ta trở nên quen biết với trí huệ đồng khởi, và sự quen biết với nó càng tăng trưởng hơn nữa. Cuối cùng mọi vết dơ ngoại sanh, đó là những thứ không bẩm sinh nội tại nơi tâm, được xóa bỏ, và mọi phẩm tính tốt nở hoa trọn vẹn. Ở điểm này người ta hoàn thành thành tựu tối cao, hay giác ngộ, nó là trí huệ đồng khởi quả.

Hai loại trí huệ đồng khởi thêm vào được diễn tả trong những tantra Kim cương thừa: Loại thứ tư sanh khởi qua những thực hành quán tưởng thao tác với những khí vi tế và những kinh mạch vi tế và những hạt vi thế. Sự hợp nhất của đại lạc và tánh Không là loại trí huệ đồng sanh thứ năm.

Hơn nữa, những đại sư của dòng Kagyu đã cho những giải thích về đồng khởi căn cứ vào kinh nghiệm của các ngài.

Những chỉ dạy của Gampopa

[222]     Mặc dù những trình bày về trí huệ đồng khởi trong những tantra và luận rất rõ ràng, chúng không hợp nhất với những chỉ dạy tinh túy. Thế nên có ích lợi nếu nhìn vào những chỉ dạy tinh túy do Gampopa ban cho, chúng diễn tả sự đồng khởi và thực hành tham thiền.

Gampopa diễn tả hai loại đồng khởi: tâm đồng khởi và những hiện tướng đồng khởi. Tâm đồng khởi ám chỉ điểm chứng ngộ khi thiền chỉ và thiền quán hòa hợp và chúng ta chứng ngộ tâm như nó là – trống không, quang minh và thoát khỏi phức tạp. Bấy giờ chúng ta an trụ trong tinh túy chân thật này của tâm. Tuy nhiên, tâm có một nguồn tài nguyên, hay năng lượng không dứt. Nguồn vô tận này xuất lộ như những hiện tướng khác nhau. Bởi vì những hiện tướng này không vượt khỏi bản tánh của tâm, chúng được gọi là những hiện tướng đồng khởi. Trong cách này, chúng ta nối kết những chỉ dạy về đồng khởi với thực hành tham thiền. 

Ba loại đồng khởi của Gomchung

[223]     Để giúp đệ tử hiểu kinh nghiệm của họ, đệ tử của Gampopa là Gomchung mở thêm thuật ngữ của Gampopa. Gomchung chỉ ra rằng chúng ta có nhiều loại tư tưởng và xúc cảm khác nhau, như vui vẻ và đam mê. Chúng ta có thể nghĩ chúng ta là tốt hoặc xấu, nhưng tất cả chúng đều không khác với bản thân tâm. Chúng không gì khác hơn là quang minh và vô tự tánh.

Gomchung diễn tả ba loại đồng khởi: Bản thân tâm đồng khởi, nó có thể được xem là Pháp thân;hiện tướng đồng khởi, nó có thể được xem là ánh sáng của Pháp thân; và tư tưởng đồng khởi, nó có thể được xem là những làn sóng của Pháp thân – như những làn sóng của đại dương không tách với bản thân đại dương, thế nên những tư tưởng không tách lìa khỏi bản thân tâm. Cho nên trong khi những tantra và những luận nói đến sự đồng khởi như là nền tảng, con đường và quả, những chỉ dạy tinh túy nói đến đồng khởi như là bản thân tâm, hiện tướng, và tư tưởng.

Bấy giờ trong chỉ dạy về đại ấn, đồng khởi được gọi là đồng khởi thống nhất. Cái ấy là gì? Có ba yếu tố: tâm, tư tưởng (tâm đã trở nên mê mờ, lay động và thô), và Pháp thân (trí huệ chứng ngộ sự vật như chúng là một cách tối hậu). Ba cái đó vốn cùng nhau; sau đó chúng xuất hiện với chúng ta như tách biệt; cuối cùng, do dựa trên những lời dạy truyền miệng về đại ấn của một vị thầy, chúng được thống nhất – chỉ là tâm – một lần nữa. Đại ấn là phương pháp cho phép chúng ta chứng ngộ chúng là hiện hữu cùng nhau, là đồng khởi. Như vậy sự chỉ dạy của đại ấn được ám chỉ như là “sự chỉ dạy thống nhất ba yếu tố đồng khởi này.”

Hơn nữa Gomchung nhận định rằng tâm đồng khởi là Pháp thân thực tế. Điều này nghĩa là cách thế hiện hữu của tâm – như sự hợp nhất của quang minh và tánh Không – không được thiết lập ngay từ ban đầu. Pháp thân thực tế là sự hòa nhập của quang minh – tánh Không của tâm khi chứng ngộ trong kinh nghiệm của thiền giả.

Một khi pháp thân này đã được nhận biết, bấy giờ cái hơn nữa có thể được thấu hiểu. Gomchung nhận xét, “sự đồng khởi của hiện tướng là pháp thân”. Nói cách khác, những sự vật khác nhau xuất hiện, nhưng bởi vì bây giờ chúng ta hiểu chúng là sự hòa nhập hay thống nhất của quang minh và tánh Không, chúng ta không tin chúng là thật. Hơn nữa, chúng ta hiểu rằng chúng vô tự tánh, và trên cơ sở ấy khai triển trí huệ pháp thân. Khi những tư tưởng không bị hiểu lầm là có tự tánh, chúng được tìm thấy giống như những làn sóng của pháp thân. Sự bất khả phân của tâm, hiện tướng và những tư tưởng vừa là pháp thân thực tế vừa là nghĩa của pháp thân. Nói cách khác, có pháp thân, nó là sự không thể khác biệt của tâm đồng khởi, hiện tướng đồng khởi, và tư tưởng đồng khởi, và đồng thời, có nghĩa là pháp thân, nó là sự đồng khởi không thể khác biệt của ba cái này. Một phương diện không thể ưu thế hơn những phương diện kia, bởi vì cả ba không thể tách lìa, không thể khác biệt. 

Đồng khởi của Pagmodrupa

Khi Gampopa nói về “sự nối kết của đồng khởi”, ý ngài là nhìn thẳng vào tư tưởng từ những quan điểm khác nhau và thấy trong nó bốn thân của giác ngộ. Đệ tử của Gampopa, Pagmodrupa, đưa điều này thêm một bước nữa. Ngài áp dụng ý niệm “sự nối kết của đồng khởi” cho ba yếu tố tâm, tư tưởng và pháp thân. Tâm, tư tưởng, và pháp thân đã nối kết tự nhiên từ ban đầu, nhưng chúng ta không chứng ngộ điều này. Qua thực hành đại ấn, chúng ta có thể khám phá sự không thể khác biệt của ba cái này. Và khi chúng ta khám phá được, đó là “sự kết nối của đồng khởi”.

Ba phương diện của đồng khởi

[225]     Đoạn này nhìn vào bản tánh của đồng khởi bằng cách nghiên tầm “chỉ ra tâm đồng khởi”, “chỉ ra tư tưởng đồng khởi”, và “chỉ ra hiện tướng đồng khởi”. Ở đây chúng ta nói về sự phân biệt giữa những kinh nghiệm khác nhau chúng ta có thể có khi tham thiền và nhận diện kinh nghiệm đồng khởi thực sự là gì.

Do nhìn vào nó lập đi lập lại và từ nhiều quan điểm, nghĩa đồng khởi dần dần rõ hơn. Gampopa nói rằng tâm là đồng khởi, những tư tưởng là đồng khởi, và những hiện tướng là đồng khởi.

TÂM ĐỒNG KHỞI

[225]     Những hiện tướng cho tâm, bản thân tâm, và sự vô tự tánh của tâm đi cùng nhau trong cái chúng ta gọi là đồng khởi. Chúng ta có thể nghĩ rằng hiện hữu quy ước của cái gì và sự không hiện hữu tối hậu của cái đó là khác nhau. Thật ra, chúng không phải như vậy, và hiện hữu của chúng cùng nhau là đồng khởi.

Nói rằng tâm thì thoát khỏi sanh, trụ và diệt không có nghĩa nó như một xác chết. Kinh nói rằng tâm là sự hợp nhất của quang minh và tánh Không. Bởi vì quang minh này có một phương diện lạc, trong những tantra nói rằng có một sự hợp nhất của lạc và tánh Không. Trong ngữ cảnh kinh, chúng ta nói về một hợp nhất của hai chân lý – chân lý tương đối và chân lý tối hậu. Tất cả điều này liên hệ với cách trong đó bản thân tâm là đồng khởi.

Để tiếp cận đồng khởi, chúng ta an trụ vào thiền chỉ và tâm nhìn vào chính nó. Không dừng tư tưởng mà chỉ tịnh hóa chính nó và trở nên bình an. Ở điểm này, tâm không thể được nhận thức như cái gì cả. Nó an trụ sống động và trong sáng trong một trạng thái tỉnh giác không thoái hóa thành nặng đục hay mờ tối. Tâm không lang thang mà vẫn trong sáng và quang minh. Trong Ánh trăng Đại Ấn, Tashi Namgyal nói, “Bản thân tâm vẫn quang minh và không dừng cái hiểu”. Tâm không mất thông minh mà tỉnh biết và tự chiếu sáng. Không thể giải thích đầy đủ điều này, phải kinh nghiệm lấy. Dù không thể diễn tả trạng thái này bằng lời, chúng ta có thể nói rằng nó là một kinh nghiệm biết sự vật như chúng là. Kinh nghiệm này sanh ra sự chắc chắn đích thực. Kinh nghiệm này gọi là thiền quán.

Chúng ta bắt đầu tham thiền này khi tâm không chìm đắm và loạn động. Chúng ta nghĩ ngơi theo một cách rất thư giản. Chỉ bằng cách nhìn chính nó, tư tưởng được bình lặng. Điều này nêu bật kinh nghiệm thiền chỉ trong bối cảnh đại ấn. Từ trong thiền chỉ, chúng ta nghiên tầm những phẩm tính của quang minh và tánh Không. Nếu tâm ta xuất hiện là quang minh và sống động, chúng ta nhìn vào đó. Cái sống động ấy là gì? Nếu tâm ta có vẻ trống không, chúng ta nghiên tầm tánh Không này. Tánh Không ấy là gì? Nó trống không như thế nào? Chúng ta không cần đặt những câu hỏi này với ai khác; chúng ta cần trả lời chúng từ kinh nghiệm riêng.

Trong kinh nghiệm ấy, sự vững chắc được gọi là thiền chỉ và trí thông minh chứng ngộ bản tánh của sự vật là thiền quán. Tên của chúng khác nhau, nhưng ở điểm này, thiền chỉ và thiền quán không tách lìa, đúng ra chúng là hai phương diện của một sự việc. Chúng được thống nhất và hòa nhập.

Khi kinh nghiệm của chúng ta về điều này an định, đó là tâm đồng khởi.

TƯ TƯỞNG ĐỒNG KHỞI

[229]     Những tư tưởng cũng đồng khởi. Có lúc tâm và những tư tưởng của nó có vẻ là những cái khác nhau và có lúc chúng có vẻ giống nhau. Chẳng hạn, trong bài ca Milarepa cho Bardarbum, ngài nói rằng tâm như một đại dương và những tư tưởng như những làn sóng trên đại dương này. Dù những làn sóng xuất hiện trong đại dương, và chúng ta thấy chúng, chúng không khác với bản thân đại dương.

Tương tự, những tư tưởng xuất hiện và được tri giác nhưng thật sự không khác với tâm.

Tuy nhiên trong một số trường hợp, những tư tưởng có vẻ là cái gì khác với tâm. Nói tâm, chúng ta muốn nói phương diện quang minh, và những tư tưởng là những sự thể khác nhau đến từ tâm, như vui, khổ, tham muốn, và sùng mộ. Những xuất hiện này được gọi là những tư tưởng lan man. Bản tánh của những tư tưởng này là tâm. Tuy nhiên, chúng được kinh nghiệm và thấy là cái gì thô.

Trong khẩn cầu dòng Kagyu, Jampal Zangpo nói, “Bản tánh của tư tưởng là pháp thân.” Có một số học giả nói nhận xét này không có ý nghĩa. Họ hỏi, làm sao những tư tưởng mê lầm và pháp thân thanh tịnh có thể là cùng một sự thể? Chúng có một điểm, vì nếu bạn nhìn vào tất cả những phương diện khác nhau bạn sẽ nói rằng trong một số phương diện, những tư tưởng không phải là pháp thân. Trên cấp độ quy ước, tâm và những tư tưởng có vẻ khác nhau. Nhưng trong bối cảnh kinh nghiệm tham thiền, bản tánh của tư tưởng là pháp giới, và pháp giới là pháp thân. Bởi thế, bản tánh của những tư tưởng là pháp thân. Từ quan điểm này, những tư tưởng là đồng khởi – không có khác biệt giữa những tư tưởng và tâm.

Một số người hiểu lầm lời dạy “tư tưởng là pháp thân” nghĩa là khi một tư tưởng sanh khởi, nó bình lặng hay tiêu tan, và rồi chúng ta ở lại với pháp thân. Những người khác hiểu lầm nó có nghĩa là nếu chúng ta chứng nghiệm tư tưởng là pháp thân, nó là pháp thân. Tuy nhiên, từ pháp thân tạo bằng dharma (pháp) nghĩa là “chân lý” và kaya (thân) có nghĩa là thân. Như vậy pháp thân ám chỉ tâm tối hậu của Phật. Hai cách hiểu lầm này phát sanh từ sự không hiểu rằng, từ sơ thủy, tư tưởng không gì khác hơn thực tại tối hậu của tâm toàn giác của Phật. Tư tưởng không trở thành pháp thân vào thời gian về sau, và nó không tùy thuộc vào việc chúng ta có biết hay không nó là pháp thân.

Pháp thứ nhất trong Bốn Pháp của Jampopa là, “Nguyện tâm là một với pháp”; thứ hai là, “Nguyện Pháp tiếp diễn con đường”; thứ ba là, “Nguyện con đường phá hủy mê lầm”; và thứ tư là, “Nguyện mê lầm mọc lên như trí huệ”. Pháp thứ tư ám chỉ những tư tưởng. Khi chúng ta nhìn vào bản tánh của những tư tưởng, chúng ta thấy sự hợp nhất của quang minh và tánh Không; theo cách ấy, những tư tưởng được thấy chính là bản tánh của trí huệ.

Để kinh nghiệm tư tưởng đồng khởi, chúng ta bắt đầu với cân bằng của tham thiền về tâm đồng khởi. Trong trạng thái ấy, chúng ta chủ ý làm cho một tư tưởng đặc biệt sanh khởi – có thể một tư tưởng thích thú hay khó chịu. Chúng ta làm nó sanh ra rất sống động và sắc sảo và rồi nhìn thẳng vào một cách trần trụi. Quan trọng là nó không phải là một tư tưởng bình thường mà là một tư tưởng xuất hiện sống động và rõ ràng. Trong bối cảnh này, chúng ta nhìn tư tưởng là không hiện hữu thật đến độ khi nó sanh khởi, chúng ta không bám vào nó như là nó thật.

Cái gì là bản tánh của tư tưởng này sanh khởi trong tâm đồng khởi? Nó là một cái trống không, không thể nhận diện như cái này hay cái kia. Bản tánh của nó không thể xác định như cái này hay cái kia. Tư tưởng là sống động và rõ ràng, và sự trong sáng của nó không thể tách lìa với tánh Không của nó. Phương diện quang minh của tư tưởng và tánh Không là bản tánh của nó là không thể tách lìa. Khi tư tưởng này sanh khởi không bị ngăn ngại và thiền giả không bám luyến vào nó, đó là thiền chỉ. Khi thiền giả thấy rằng tư tưởng ấy không có tự tánh, đó là thiền quán. Để hoàn thành đầy đủ tham thiền, thiền chỉ và thiền quán phải hoàn toàn hòa nhập.

Khi những tư tưởng xuất hiện chúng vô tự tánh. Điều này được gọi là “sự hợp nhất của hiện tướng và tánh Không”. Chúng ta có thể nghiệm sự hợp nhất của hiện tướng và tánh Không hay không thì chẳng hề hấn gì đến bản tánh của tư tưởng. Tuy nhiên trong kinh nghiệm của một cá nhân, chắc chắn có một khác biệt giữa chứng nghiệm sự hợp nhất của hiện tướng và tánh Không và không chứng nghiệm nó. Nhưng tánh không là bản tánh của sự vật dù chúng ta có chứng nghiệm nó hay không. Khi chúng ta hiểu cái này trong tham thiền, chúng ta chứng nghiệm tư tưởng đồng khởi.

Tại sao chúng ta cần chỉ ra tính đồng khởi của tư tưởng? Chúng ta thường nghĩ phải tham thiền với một trạng thái thư giản, bình an của tâm, và thật vậy, rất ích lợi khi làm như vậy. Nhưng đó không phải là cách độc nhất để tham thiền. Thật ra, cái nghịch lại cũng là tốt: cũng ích lợi khi tham thiền với nhiều tư tưởng. Như vậy có lời dạy về chỉ ra tính đồng khởi của tư tưởng.

Lại một lần nữa, chúng ta tham thiền trong Samadhi, hay chánh định, trong đó sự nhận biết bản tánh của tâm và tâm an định trong thiền chỉ được hợp nhất. Trong ấy, chúng ta tạo ra một tư tưởng như vui vẻ, đam mê hay gây hấn. những tư tưởng như vậy được diễn tả là thô bởi vì chúng có vẻ rất mạnh và sống động. Dù tư tưởng nào, chúng ta nhìn thẳng vào nó. Từ đâu tư tưởng này sanh khởi? Nó trụ ở đâu? Nó đi về đâu? Nó là cái gì? Khi chúng ta nhìn rõ ràng và chính xác, nghĩa của tâm đồng khởi và nghĩa của tư tưởng đồng khởi là như nhau. Chúng ta có khuynh hướng nhìn thấy tâm thô động và tâm bình an là khác nhau, nhưng thật ra, bản tánh của tâm thô động và bản tánh của tâm bình an là như nhau. Bản tánh của tâm không thay đổi khi trạng thái của nó thay đổi. Những trạng thái sống động này của tâm có vẻ là cái gì đó, nhưng thật ra chúng không bao giờ sanh. Ở điểm này sự chứng nghiệm không chỉ là một lý thuyết để suy diễn; đúng ra, nó được thấy một cách trực tiếp. Đây là tại sao chúng ta nói trong Cầu Nguyện Dòng Kagyu, “Bất cứ tư tưởng nào sanh khởi, bản tánh của chúng là pháp thân”, có nghĩa rằng bản tánh của tư tưởng là bản thân tâm, pháp thân.

Cũng có một ứng dụng rất thực tiễn cho sự chứng nghiệm tư tưởng đồng khởi này. Khi chúng ta kinh nghiệm vui sướng lớn lao và trở nên bị hấp dẫn bởi nó hay khi kinh nghiệm đau đớn mạnh mẽ và khốn khổ, chúng ta sanh ra những phiền não, tâm chúng ta trở nên rất nhiễu loạn. Vào những lúc như vậy lời dạy về tư tưởng đồng khởi có giá trị đặc biệt. Nếu chúng ta nhìn thẳng vào sự đau đớn và những phiền não, chúng sẽ bình lặng. Và nếu chúng ta nhìn thẳng vào những bám luyến mạnh mẽ, chúng sẽ giảm. Đây là mục tiêu đích thực của việc hiểu và có thể thực hành sự đồng khởi này của tư tưởng.

HIỆN TƯỚNG ĐỒNG KHỞI

[233]     Đệ tử Gomchung của Gampopa tách biệt hiện tướng đồng khởi thành tư tưởng đồng khởi và hiện tướng đồng khởi để làm dễ hiểu hơn.

Trong đoạn trước, chúng ta nhìn vào sự đồng khởi của những hiện tướng có liên quan đến cảm nhận như vui sướng và khổ đau. Trong đoạn này, chúng ta sẽ bàn luận hiện tướng đồng khởi áp dụng cho những sự vật bên ngoài như màu sắc, hình dáng, âm thanh, và mùi hương.

Chúng ta bắt đầu tham thiền bằng cách an trụ trong cân bằng thiền định của tâm đồng khởi đã giải thích ở đoạn trước và nhìn vào bản thân tâm. Rồi chúng ta chú ý đến cái xuất hiện như những hiện tượng bên ngoài, chẳng hạn một cái bình, một buyn đinh, hay một trái núi. Ở điểm này, chúng ta có thể kinh nghiệm một số khó khăn. Bởi vì cho đến bây giờ, chúng ta đã thiết lập những khuynh hướng rất mạnh mẽ là thấy những sự vật như ở ngoài chúng ta. Chẳng hạn trái núi thì ở ngoài, còn tâm thì ở trong; chúng ta nghĩ rằng tâm đang nhìn trái núi. Thực hành tham thiền này có một sự không thoải mái lúc ban đầu bởi vì chúng ta được giới thiệu hiện tướng là một phương diện của tâm chúng ta. Không phải con mắt đang nhìn một trái núi; đúng ra, có một hiện tướng của quang minh của tâm chúng ta như một trái núi. Hiện tướng là phần của cấu trúc tri giác của bản thân tâm. Không có gì ngoài quang minh bẩm sinh của tâm. Nó không phải là cái gì ở ngoài tâm.

Khi dãy màu sắc và hình dạng xuất hiện, thiền giả không dừng lại hay cho phép nó mờ nhạt đi. Sự thực hành ở điểm này không phải là chỉ nhìn vào bản thân tâm và kinh nghiệm quang minh và tánh Không, mà đúng ra nhìn trần trụi vào bất cứ phương diện nào xuất hiện. Quang minh của hiện tướng ấy có một bản chất không thể nhận diện một cách trí thức. Nó là một tánh Không không thể nắm bắt và trụ vào. Nó là sự đồng khởi này của quang minh và tánh Không, hiện tướng đồng khởi này, mà thiền giả đang làm việc với trong thời kỳ này.

Lingrepa nói, “ Bản thân tâm, nó không có nền tảng và gốc rễ, được hiểu rõ bằng cách nghĩ về những giấc mộng đêm qua. Những giấc mộng đêm qua là một vị thầy tuyệt hảo cho sự chỉ ra hiện tướng chỉ là tâm”. Khi chúng ta mộng, mọi loại sự vật xuất hiện, nhưng khi thức dậy, chúng ta chứng nghiệm rằng những hiện tướng này không gì khác hơn là bản thân tâm. Những giấc mộng là một vị thầy tuyệt diệu, vì chúng giúp cho ta hiểu rằng những hiện tướng trong đời sống lúc thức cũng không khác hơn là tâm.

Những người đề xướng trường phái Duy Tâm chủ trương rằng mọi hiện tướng chỉ là tâm. Các vị nói rằng mọi hiện tướng, gồm những sự vật cứng đặc ở bên ngoài như núi non và buyn đinh, đều là tâm. Các vị nói những hiện tượng có vẻ bên ngoài và cứng đặc không gì khác hơn là những hiện tướng của tâm bên trong – chúng không thực sự là những vật bên ngoài. Khi điều này là thật, nó không phải là cái đang được chỉ ra ở đây. Ở đây từ “những hiện tướng” không ám chỉ những hiện tướng bên ngoài; đúng ra, nó ám chỉ kinh nghiệm tri giác một cái gì, như thấy một hình ảnh hay nghe một âm thanh. Cảm nhận nào đó đi với kinh nghiệm tri giác này. Chúng ta không cố gắng tạo ra một vấn đề về có hay không những hiện tượng có vẻ bên ngoài là bên ngoài thật. Chúng ta chỉ nhìn vào kinh nghiệm chúng ta đang thấy, đang nghe… Chúng ta đang nhìn thẳng vào đó, và khi làm thế, chúng ta thấy sự thật của vấn đề. Kinh nghiệm ấy trở nên không thể tách lìa với pháp tánh. Nó không vượt khỏi bản thân tâm.

Tư tưởng đồng khởi và hiện tướng đồng khởi thì không khác bản tánh, nhưng đúng hơn là những cách khác nhau để nói về một bản tánh.

NHỮNG ĐIỂM THIẾT YẾU CỦA ĐẠI ẤN: NHÌN THẲNG TÂM

Khenchen Thrangu Ringpoche
Essentials of Mahamudra, looking directly at the mind, Wisdom Publications, Boston, 2004.
Ban dịch thuật Thiện Tri Thức, 2014.

SHARE:

Trả lời