KHÁM PHÁ PHẨM CHẤT CAO QUÝ BÊN TRONG CHÚNG TA

SHARE:

Nhà tâm lý học và thiền sư nổi tiếng Jack Kornfielo đề xuất một loại bình tâm lý học mới, một tâm lý học không dựa trên mô hình bệnh khổ mà dựa trên niềm tin Phật giáo vào phẩm chất cao quý, tốt đẹp và tự do vốn có trong bản chất mỗi người.
“Hỡi người tôn quý, hỡi người có nguồn gốc huy hoàng, hãy nhớ đến bản tính chân thật rạng rỡ của mình, tinh tuý của tâm. Hãy tin tưởng nó. Quay trở lại với nó. Nó là nhà”.
– Trích từ “Tử Thư Tây Tạng”.

“Sau đó, như thể tôi đột nhiên nhìn thấy vẻ đẹp thầm kín trong trái tim họ, nơi sâu thẳm trong trái tim họ, nơi mà cả tội lỗi, ham muốn và cả kiến thức về bản thân đều không thể chạm tới, cốt lõi thực tại của họ, con người mà mỗi người ở trong đôi mắt của Đấng Tôn Quý Giá như tất cả họ có thể nhìn thấy bản thân như họ thực sự là. Giá như chúng ta có thể luôn luôn thấy nhau như vậy mọi lúc mọi nơi. Sẽ không còn chiến tranh, không còn hận thù, không còn tàn ác, không còn tham lam … Tôi nghĩ rằng vấn đề lớn sẽ là chúng ta quỳ xuống và tôn thờ lẫn nhau”.
– Thomas Merton

Trong một ngôi chùa lớn ở phía bắc cố đô Sukhothai của Thái Lan, từng có một tượng Phật bằng đất sét khổng lồ và cổ kính. Mặc dù không phải là tác phẩm đẹp nhất hay tinh tế nhất của nghệ thuật Phật giáo Thái nhưng bức tượng đã được chăm sóc trong khoảng thời gian hơn năm trăm năm và trở nên được tôn kính bởi sự lâu đời của nó. Những cơn bão dữ dội, những thay đổi của chính phủ, và những đội quân xâm lược đã đến và đi, nhưng Đức Phật vẫn ở đó.
Tuy nhiên, tại một ngày nọ, các nhà sư trông coi ngôi đền đã nhận thấy rằng bức tượng đã bắt đầu nứt và sẽ sớm cần được sửa chữa và sơn phết lại. Sau một khoảng thời gian đặc biệt nóng và khô, một trong những vết nứt trở nên rộng đến mức một nhà sư tò mò đã lấy đèn pin rọi vào bên trong. Thứ chiếu lại anh ta là một tia sáng vàng rực rỡ! Bên trong bức tượng cũ đơn sơ này, những người dân trong chùa đã khám phá ra một trong những bức tượng Phật bằng vàng sáng và lớn nhất từng có ở Đông Nam Á. Bây giờ, sau khi được phát hiện, tượng Phật vàng thu hút rất đông những người hành hương sùng kính từ khắp nơi trên đất nước Thái Lan.

Các nhà sư tin rằng tác phẩm nghệ thuật sáng chói này đã được bao phủ bởi thạch cao và đất sét để bảo vệ nó trong suốt thời gian xung đột và bất ổn. Cũng giống như vậy, mỗi người trong chúng ta đều gặp phải những tình huống đe dọa khiến ta phải che đậy phẩm tính cao quý bẩm sinh của mình. Cũng như người dân Sukhothai đã quên đi Đức Phật vàng, chúng ta cũng đã quên bản tính tinh tuý của mình. Phần lớn thời gian chúng ta hoạt động từ lớp bảo vệ bên ngoài. Mục đích chính của tâm lý học Phật giáo là giúp chúng ta nhìn vào bên dưới lớp áo giáp này và mở ra tính tốt căn bản của mình, hay còn được gọi là Phật tính.
Đây là một nguyên tắc đầu tiên của tâm lý học Phật giáo: thấy phẩm chất cao quý và vẻ đẹp bên trong của tất cả mọi người.
Robert Johnson, nhà phân tích Jungian nổi tiếng, thừa nhận rằng nhiều người trong chúng ta khó tin vào tính tốt của mình. Chúng ta dễ dàng coi những nỗi sợ hãi và suy nghĩ tồi tệ nhất là con người của mình, những đặc điểm không được thừa nhận được Jung gọi là “phần tối” của chúng ta. “Thật kỳ lạ”, Johnson viết “mọi người chống lại những phương diện cao quý trong phần tối của họ một cách vất vả hơn cả việc họ che giấu những mặt xấu…. Việc nhận ra rằng bạn có một phẩm chất cao quý sâu sắc còn khó chịu hơn là phát hiện ra rằng mình là một kẻ vô tích sự”.

Niềm tin vào một con người hạn chế và nghèo nàn là một thói quen mạnh mẽ đến nỗi nếu không có nó, chúng ta e rằng sẽ không biết sống như thế nào. Nếu chúng ta hoàn toàn thừa nhận phẩm chất cao quý của mình, điều đó có thể dẫn đến những thay đổi trong đời sống một cách triệt để. Nó có thể đòi hỏi một điều gì đó rất lớn lao từ chính ta. Tuy nhiên, một phần trong chúng ta biết rằng cái con người đầy sợ hãi và tổn thương ấy không phải là bản thân mình. Mỗi người cần tìm cách để trở nên toàn vẹn và tự do.
Trong gia đình tôi, không dễ gì thấy được tính tốt của bản thân. Những ký ức đầu tiên của tôi là về một người cha hoang tưởng và bạo lực không thể đoán trước, một người mẹ bị đánh đập bầm tím, đầy sợ hãi, và bốn cậu con trai, mỗi người đều tự hỏi, “Làm thế nào chúng ta lại đến đây?” Tất cả chúng tôi đều nín thở khi cha chúng tôi đậu xe vào bên lề đường trước cửa nhà. Vào những ngày đẹp trời, ông ấy có thể tỏ ra quan tâm, hài hước và chúng tôi sẽ cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng thường thì chúng tôi phải trốn đi hoặc thu mình lại để tránh những cơn giận dữ và thịnh nộ dựng tóc gáy của ông. Trong những chuyến du lịch cùng gia đình, áp lực có thể khiến ông đập đầu vào kính chắn gió hoặc trừng phạt con cái vì những hành vi thất thường của những người lái xe khác. Tôi nhớ bà nội đã cầu xin mẹ tôi đừng ly hôn với ông. “Ít nhất thì ông ấy đôi khi cũng có thể giữ được một công việc. Ông ấy không quá điên rồ như những người trong bệnh viện tâm thần”.

Tuy nhiên, tôi biết sự bất hạnh này không phải là tất cả những gì hiện hữu trên đời. Tôi có thể nhớ rằng mình đã chạy ra khỏi nhà vào những ngày đau khổ, lúc lên sáu hoặc bảy tuổi, trong khi cha mẹ mình đang đánh nhau. Có gì đó trong tôi cảm thấy mình không thuộc về ngôi nhà đó, như thể tôi đã sinh ra không đúng gia đình. Đôi khi tôi tưởng tượng, như những đứa trẻ hay làm, một ngày nào đó sẽ có tiếng gõ cửa và một quý ông lịch lãm sẽ hỏi tên tôi. Sau đó ông ấy sẽ thông báo rằng Jack và các anh em của cậu đã được bí mật gửi vào trong ngôi nhà này, nhưng giờ đây cha mẹ ruột của cậu ấy, đức vua và hoàng hậu, muốn cậu ấy trở về với gia đình hợp pháp của mình. Những tưởng tượng thời thơ ấu này đã làm nảy sinh một trong những dòng chảy mạnh mẽ nhất của cuộc đời tôi, khao khát được trở thành một phần của điều gì đó xứng đáng và có thật. Tôi đang tìm kiếm gia đình thực sự cho sự sinh ra đầy quý báu của mình.
Trong những thời điểm đầy hoài nghi này, chúng ta có thể nghĩ về tính tốt căn bản chỉ đơn thuần là một cụm từ nâng cao tinh thần, nhưng qua lăng kính của nó, chúng ta khám phá ra một cách nhìn nhận và sống hoàn toàn khác: con người với mục đích là biến đổi thế giới của mình. Điều này không có nghĩa là chúng ta phớt lờ nỗi đau buồn to lớn trong mỗi người hay chúng ta khiến bản thân dễ bị tổn thương một cách ngu ngốc trước những cá nhân không ổn định và có thể thậm chí là bạo lực. Thật vậy, để tìm thấy chân giá trị nơi những người khác, phải thừa nhận những đau khổ của họ.

Trong số những phần tinh túy nhất của tất cả các nguyên tắc tâm lý Phật giáo là bốn sự thật cao quý, bắt đầu bằng việc thừa nhận những đau khổ không thể tránh khỏi trong đời sống con người. Quá khó khăn để nói đến sự thật này trong nền văn hóa hiện đại, nơi mọi người được dạy hãy tránh sự khó chịu bằng bất cứ giá nào, nơi “mưu cầu hạnh phúc” đã trở thành “quyền được hạnh phúc”. Và khi chúng ta đang đau khổ, sự thật về đau khổ được thừa nhận sẽ có ích và giúp chúng ta cảm thấy dễ chịu.
Những lời dạy của Đức Phật giúp chúng ta đối diện với những đau khổ của cá nhân mình, từ xấu hổ và trầm cảm đến lo lắng và buồn rầu. Giáo lý ấy giúp giải quyết nỗi thống khổ chung của thế giới và giúp chúng ta giải quyết nguồn gốc của nỗi buồn này: những thúc đẩy của tham lam, hận thù và si mê trong tâm hồn mỗi người. Mặc dù quan tâm đến những đau khổ là rất quan trọng, nhưng điều này không làm lu mờ đi phẩm tính cao quý cơ bản của chúng ta.

Từ phẩm tính cao quý không dùng để chỉ các hiệp sĩ và tòa án thời Trung cổ. Nó bắt nguồn từ chữ “ghi” trong tiếng Hy Lạp (như là trong chữ “gnosid”), có nghĩa là “trí huệ” hoặc “sự soi sáng từ bên trong”. Trong tiếng Anh, phẩm tính cao quý được định nghĩa là sự xuất sắc của mỗi người, như là danh tiếng, đáng ngưỡng mộ, cao thượng và nổi bật trong những giá trị, cách cư xử và sự chịu đựng. Làm thế nào chúng ta có thể kết nối trực quan với phẩm tính này ở những người xung quanh? Cũng như không ai có thể chỉ ta biết cách cảm nhận tình yêu thương, mỗi chúng ta có thể tìm ra cách riêng của mình để cảm nhận được lòng tốt tiềm ẩn trong người khác. Có một cách là chuyển khung thời gian, tưởng tượng người trước mắt chúng ta là một đứa trẻ nhỏ, vẫn còn non nớt và hồn nhiên. Một lần, sau khi trải qua một ngày đặc biệt khó khăn với đứa con gái đang tuổi trưởng thành của mình, tôi thấy mình đang ngồi bên cạnh con khi nó ngủ. Chỉ vài giờ trước, chúng tôi đã tranh cãi về kế hoạch của con bé cho buổi tối; bây giờ con bé nằm ngủ với sự hồn nhiên và tuyệt đẹp của tuổi thơ. Sự ngây thơ như vậy có ở tất cả mọi người, nếu chúng ta sẵn sàng nhìn nhận nó.

Hoặc, thay vì quay ngược thời gian, chúng ta có thể tiến về phía trước. Chúng ta có thể hình dung một người vào cuối đời, nằm trên giường bệnh, dễ bị tổn thương, cởi mở, không có gì phải che giấu. Hoặc chúng ta có thể đơn giản xem anh ta như một người bạn đồng cảnh ngộ, vật lộn với gánh nặng của mình, mong muốn hạnh phúc và chân giá trị. Bên dưới những nỗi sợ hãi và nhu cầu, sự thô lỗ và đau đớn, bất cứ ai chúng ta gặp đều là một con người, giống như chúng ta, có tiềm năng hiểu biết và trắc ẩn to lớn, mà nơi đó, tính tốt của họ có thể được chạm tới.
Có lẽ chúng ta có thể dễ dàng ngưỡng mộ tinh thần con người nhất khi nó tỏa sáng trong các nhà lãnh đạo có đạo đức vĩ đại trên thế giới. Chúng ta thấy một lòng trắc ẩn không thể lay chuyển ở người đoạt giải Nobel Hòa bình Aung San Suu Kyi, người vẫn kiên định và yêu thương bất chấp những năm dài bị quản thúc tại Miến Điện. Chúng ta nhớ cách cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela bước ra khỏi nhà tù với một phong thái dũng cảm và phẩm cách tuyệt vời, không hề khuất phục sau hai mươi bảy năm bị tra tấn và gian khổ. Tinh thần tương tự cũng tỏa ra từ những đứa trẻ khỏe mạnh ở khắp mọi nơi. Niềm vui và vẻ đẹp tự nhiên của chúng có thể đánh thức chúng ta về vị Phật của mình. Chúng nhắc nhở ta rằng chúng ta được sinh ra với tinh thần tỏa sáng này.

Vậy tại sao, trong tâm lý học phương Tây, chúng ta lại quá chú trọng vào mặt tối của bản chất con người? Ngay cả trước Freud, tâm lý học phương Tây vẫn dựa trên một mô hình y học, và nó vẫn tập trung chủ yếu vào bệnh lý học. Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thức của ngành tâm lý học, định hướng công việc của hầu hết các nhà trị liệu, phòng khám và nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, là một danh sách toàn diện về hàng trăm vấn đề và bệnh tâm lý. Việc phân loại các vấn đề giúp chúng ta nghiên cứu chúng và hy vọng có thể chữa chúng một cách khoa học và hiệu quả kinh tế nhất. Nhưng chúng ta thường chú ý đến lớp bảo vệ như sợ hãi, trầm cảm, bối rối và hung hăng đến nỗi chúng ta quên mất bản thân mình thực sự là ai.
Là một người hướng dẫn thiền, tôi luôn thấy điều này. Khi một người trung niên tên là Marty đến gặp tôi sau một năm đau khổ vì ly thân và ly hôn, anh đã bị cuốn vào những chu kỳ lặp đi lặp lại của cảm giác không xứng đáng và xấu hổ mà anh đã mang theo từ thời thơ ấu. Anh tin rằng có điều gì đó không ổn với mình. Anh đã quên đi tính tốt căn bản của mình. Khi một phụ nữ trẻ, tên Jan, đến với Phật giáo sau một thời gian dài đấu tranh với lo lắng và trầm cảm, cô đã rất khó khăn để buông bỏ hình ảnh bản thân là một người bị suy nhược và đầy thương tổn. Trong nhiều năm, cô đã chỉ nhìn thấy bản thân thông qua những chẩn đoán và các loại thuốc khác nhau và đã thất bại trong việc kiểm soát nó.

Khi tâm lý học nghiêng về mặt dược lý hơn, mô hình y tế này càng được củng cố. Ngày nay, hàng triệu người trưởng thành đang tìm kiếm sự hỗ trợ về sức khỏe tâm thần đều phải nhanh chóng sử dụng thuốc. Rắc rối hơn nữa, hàng trăm nghìn trẻ em đang được kê đơn các loại thuốc tâm thần cực mạnh cho các tình trạng từ ADHD (rối loạn tăng động, giảm chú ý ở người lớn) đến chẩn đoán rối loạn lưỡng cực mới trở nên phổ biến ở trẻ em. Trong khi những loại thuốc này có thể phù hợp, thậm chí là cứu sống nhiều sinh mạng, trong một số trường hợp, người dân và các chuyên gia ngày càng xem các viên thuốc như câu trả lời cho sự bối rối và đau khổ của con người. Nó không nhất thiết phải như vậy.

Tự do nội tâm: Giải phóng trái tim bạn

Nếu chúng ta không tập trung vào giới hạn và bệnh lý của con người, thì giải pháp thay thế là gì? Đó là niềm tin rằng tự do của con người là có thể trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Giáo lý Phật giáo diễn đạt như thế này: “Cũng như đại dương chỉ có một vị, vị của muối, cũng như vậy, tất cả những lời dạy của Đức Phật cũng chỉ có một vị, vị của giải thoát”.
Nhà tâm lý học Viktor Frankl là thành viên duy nhất trong gia đình ông sống sót trong các trại tử thần của Đức Quốc xã. Tuy nhiên, bất chấp sự đau khổ này, ông ấy đã tìm thấy một con đường để chữa trị. Frankl viết: “Chúng tôi, những người từng sống trong các trại tập trung có thể nhớ những người đàn ông đi qua các túp lều an ủi người khác, cho đi miếng bánh mì cuối cùng của họ. Chúng có thể ít về số lượng, nhưng chúng đem đến một bằng chứng đầy đủ rằng có thể lấy mọi thứ từ một người ngoại trừ một điều: tự do cuối cùng của con người – là chọn thái độ trong bát kỳ hoàn cảnh cụ thể nào, là chọn lựa con đường riêng của mỗi chúng ta”.

Khi chúng ta chìm trong những cuộc khủng hoảng và xung đột tồi tệ nhất, trong trạng thái sợ hãi và bối rối sâu sắc nhất, nỗi đau của ta dường như vô tận. Chúng ta có thể cảm thấy như không có lối ra, không có hy vọng. Tuy nhiên, có một trí tuệ tiềm ẩn khao khát tự do. Đức Phật nói: “Nếu không có khả năng giải thoát trái tim khỏi vướng mắc vào những tâm trạng không lành mạnh, ta đã không dạy ngươi làm như vậy. Nhưng chỉ vì có khả năng giải thoát trái tim khỏi vướng mắc vào những tâm trạng không lành mạnh, nên ta đưa ra những lời dạy này”.
Rõ biết tinh thần tự do bên trong này là mục đích của hàng trăm bài thực hành và rèn luyện trong Phật giáo. Mỗi bài thực hành này giúp chúng ta nhận ra và loại bỏ những khuôn mẫu không lành mạnh tạo ra đau khổ và thay vào đó, phát triển những khuôn mẫu lành mạnh. Điều quan trọng của phương pháp tiếp cận tâm lý học Phật giáo là sự chú trọng vào rèn luyện và thực hành, cũng như là trí huệ thấu suốt. Thay vì đi vào trị liệu là thảo luận về các vấn đề của bạn và được lắng nghe mỗi tuần một lần, nên có một chế độ luyện tập và kỷ luật hàng ngày và liên tục để giúp bạn học hỏi và thực hành những cách sống lành mạnh. Những thực hành này mang lại cho chúng ta trí tuệ và lòng bi mẫn bẩm sinh, và hướng ta đến tự do.

Nhận thức thiêng liêng
“Các vị thánh là cái họ là, không phải vì sự tôn nghiêm làm cho họ được người khác ngưỡng mộ, nhưng bởi vì ân tứ (món quà) của thánh vị có thể khiến họ ngưỡng mộ mọi người”.
– Thomas Merton

TRÍCH: PHẬT PHÁP TRONG ĐỜI SỐNG
Việt dịch: Diệu Như Nguyễn Thúy Linh
NXB Thiện Tri Thức, 2021
🌿🌿🌿🌼🌿🌿🌿
Tâm Lý Học về Tính Tốt Căn Bản
Jack Kornfield
Ảnh nguồn internet

Post: Thường An

SHARE: