HẬN THÙ & THA THỨ

SHARE:

Nhà triết học Clarence Darron đã tóm tắt điều này trong câu: “Biết rộng tức là hiểu nhiều và khi đã hiểu nhiều thì không chỉ trích và buộc tội ai cả.”

Đêm nọ, trong một chuyến du lịch, tôi ghé thăm công viên Quốc gia ở tỉnh Yellowstone. Tôi ngồi trên khoảng đất cao trước một khu rừng thông rậm rạp cùng với một số khách du lịch khác. Bất thần, một con gấu xám Bắc Mỹ – mối kinh hoảng của rừng thẳm – bỗng xuất hiện dưới ánh đèn pha và bắt đầu nghiến ngấu những khúc thịt vụn do nhà bếp công viên vứt ra đó. Viên kiểm lâm ngồi trên mình ngựa, gần những du khách, vui miệng kể cách sinh sống của các giống gấu, nhất là giống gấu Bắc Mỹ này. Ông cho chúng tôi hay nó là giống vật khỏe nhất Tây bán cầu ngoài giống trâu ra, có lẽ là ngoài cả giống gấu Kadiak. Thế mà tối đó tôi lại thấy chú gấu Bắc Mỹ để cho một con vật khác đứng gần nó và không những thế, lại cho con vật này ăn cùng nữa: Con chồn. Cố nhiên chú gấu biết rằng chỉ một cái tát là con chồn sẽ nát như tương. Vậy mà nó không tát. Tại sao thế? Tại kinh nghiệm bảo nó rằng làm vậy chẳng ích lợi gì.

Chính tôi cũng đã có lần nhận thấy điều ấy. Hồi còn là đứa nhỏ chạy rông trên các cánh đồng cỏ xứ Misssouri, tôi thường bắt được giống chồn 4 chân; và khi trưởng thành, đôi khi tôi cũng gặp một vài con chồn ‘2 chân’ lẩn lút trong các phố New York. Kinh nghiệm lâu đời và chua cay đã dạy tôi rằng 2 giống chồn, 4 chân cũng như 2 cẳng, chẳng đáng cho ta bận ý.

Khi thù oán ai tức là ta đã cho họ dịp ảnh hưởng đến đời ta, ảnh hưởng đến giấc ngủ, bữa ăn, đến tiềm năng, sức khoẻ và sự yên tĩnh trong tinh thần ta. Bọn cừu nhân biết chúng đã làm ta phải băn khoăn, bứt rứt là nhẩy lên vì sung sướng. Ta thù oán chúng, chắc chắn là chẳng làm cho chúng đau đớn chút nào, mà trái lại làm cho đời ta thành ác mộng.

………

Tôi có một người bạn thân vừa đây bị một cơn đau tim kịch liệt. Thầy thuốc bắt anh ta phải tĩnh dưỡng và nhất là không được nổi nóng vì bất cứ cớ gì, vì lẽ thầy thuốc nào cũng biết rằng người đau tim rất có thể đột tử khi nổi giận. Chắc bạn chẳng cho là thật? Tôi xin kể một chuyện. Cách đây mấy năm, một ông chủ hàng cơm tỉnh Spokane, tiểu bang Washington đã ngã đùng ra chết sau một cơn thịnh nộ. Đây là bài tường thuật của viên cảnh sát trưởng mô tả tình huống xảy ra tai nạn: Ông William Falkaber 68 tuổi, chủ một tiệm ăn, đã tự giết mình khi đang nổi giận vì người bếp không nghe lời ông mà cứ uống cà phê trong đĩa chứ không uống bằng tách. Ông nổi khùng vác súng lục đuổi người bếp, rồi bỗng ngã vật ra chết, tay hãy còn nắm chặt khẩu súng. Khám nghiệm tử thi, bác sĩ tuyên bố ông đứt mạch máu vì ‘thịnh nộ’.

Bạn thấy đấy, khi Chúa Jesus dạy chúng ta “hãy yêu kẻ thù”, chẳng những đã vạch ra cho những người theo đạo Ngài một con đường tinh thần, mà còn dạy họ một bài học về cách giữ gìn sức khỏe mà khoa học thế kỷ 20 này cũng phải công nhận là đúng. Hơn nữa, Ngài còn chỉ cho các bà cách làm tăng vẻ đẹp.

Bạn cũng như tôi, ai cũng đã có lần thấy những khuôn mặt phụ nữ khắc khổ vì giận dữ, hay biến tướng vì thù hận. Không một mỹ viện nào ở thế gian lại có thể chỉnh được những khuôn mặt này, trừ một trái tim hỉ xả và thương yêu nhân loại.

Sự thù oán không những làm tinh thần mất bình tĩnh, mà còn giết từ hương vị của đời sống đến những thú vui nhỏ nhặt nhất như ăn một bữa cơm ngon. Thánh kinh đã nói: “Ăn một đĩa rau mà vui vẻ còn hơn là ăn cả một con bò có hương vị của oán thù.”

Bạn không biết rằng kẻ thù của bạn sẽ xoa tay sung sướng khi biết vì tức giận họ mà bạn cáu kỉnh, héo hắt, kém sắc, đau tim và rất có thể sẽ giảm thọ sao?

Nếu ta không thể yêu được kẻ thù, làm tốt cho họ, thì ít ra ta cũng phải yêu lấy ta! Ta phải yêu ta, khiến họ không thể làm chủ hạnh phúc, sức khỏe và những nét nhăn trên mặt ta được chứ!

Chúa Jesus khi khuyên ta nên tha thứ “một trăm lần” cho những kẻ thù của mình, đã dạy một bài học thực nghiệm vô giá. Tôi muốn kể ra đây một bức thư của ông Georrge Rona, hiện ở tỉnh Upsala, Thụy Điển. Ông trước kia làm luật sư tại tỉnh Vienne, Áo. Khi quân Quốc Xã xâm lăng Áo, ông trốn sang Thụy Điển. Vì số tiền lưng mang được theo quá ít, ông phải tìm việc làm. Vì viết và nói thông thạo nhiều thứ tiếng nên ông hy vọng sẽ kiếm được việc trong một hãng xuất cảng. Ông gửi đơn xin việc, nhưng tới đâu người ta cũng trả lời rằng trong thời kỳ chiến tranh không thể thu nhận một thư tín viên ngoại quốc, tuy nhiên họ cũng ghi tên và sẽ gọi đến ông, nếu cần… Trong khi đó, một thương gia gửi cho ông Georrge Rona lá thư sau đây: “Những ý nghĩ của ông về công việc của tôi hoàn toàn sai lầm và có phần lố bịch nữa. Trước hết, tôi xin nói rằng tôi chẳng cần mướn một thư tín viên; sau, nếu cần đi nữa tôi cũng chẳng mướn ông, bởi vì ông không viết nổi một bức thư bằng tiếng Thụy Điển cho đúng luật. Bằng chứng là bức thư ông gửi tôi đầy những lỗi.”

Khi đọc bức thư ấy, ông Rona tức uất người. Cái lão thương gia đó có quyền gì mà dám mắng mình dốt! Lại tức hơn nữa là chính thư của lão cũng đầy những lỗi! Ông Rona lập tức lấy giấy bút ra viết thư dạy cho lão thương gia một bài học. Nhưng sau nghĩ lại, ông tự nhủ: “Kể cũng phải, làm sao mình biết được lão này nói vô lý? Mình có học tiếng Thụy Điển, nhưng đâu phải là tiếng mẹ đẻ của mình! Như vậy rất có thể mình viết sai mà không biết. Tốt hơn mình nên học thêm thứ tiếng này rồi tìm chỗ khác vậy. Ấy thế, lão đó đã vô tình chỉ lỗi cho mình vậy. Lời lẽ của lão nghe đáng bực thật, nhưng mình cũng phải cảm ơn lão ta. Phải, mình phải viết thư cảm ơn lão ta mới được.”

Thế là ông Rona xé lá thư ‘nói móc’ vừa viết xong và thảo lá thư khác lời lẽ với như vầy: “Ông thật có lòng tốt đã bỏ thời giờ phúc đáp tôi. Bởi vậy tôi rất cảm phục cử chỉ của ông, nhất là khi ông nói không cần một thư tín viên thông thạo ngoại ngữ. Tôi lấy làm hổ thẹn vì đã có những ý nghĩ sai lầm về quý hãng. Sở dĩ tôi mạn phép gửi đơn vì nghe có người mách rằng quý hãng là hãng lớn nhất trong hoạt động xuất cảng. Còn những chỗ viết sai luật trong thư tôi mà ông đã vạch ra, xin thú thật là tôi không nhận thấy, và không ngờ mình lại viết sai nhiều đến thế. Từ hôm nay, tôi sẽ cố gắng học thêm tiếng Thụy Điển hầu lần sau sẽ không phạm những lỗi này nữa. Cảm ơn ông đã vạch ra những lỗi để tôi biết mà tự rèn luyện thêm!”

Mấy ngày sau ông Rona bỗng nhận được thư của ông chủ hãng buôn mời đến hội kiến. Ông Rona đến chỗ hẹn và được nhận vào làm. Ông khám phá ra rằng một câu trả lời hòa nhã có thể làm nguôi cơn giận của một người.

Có thể rằng ta chẳng đủ nghị lực để vượt lên những thói thường của con người, để có thể yêu kẻ thù của mình. Nhưng hãy nên vì sức khỏe và hạnh phúc của chính ta mà tha thứ cho chúng, và quên chúng đi. Đó là điều hay nhất, khôn ngoan nhất nên làm. Khổng Tử dạy rằng: “Bị mất cắp, bị vu oan chẳng phải là điều quan trọng, nếu ta bỏ không nghĩ đến nữa.” Có lần tôi hỏi người con trai đại tướng Eisenhower rằng ông có thấy cha ông thù ghét ai không. Ông trả lời: “Chẳng khi nào thân phụ tôi lại rỗi thì giờ nghĩ đến những kẻ mà người không ưa.”

Có một ngạn ngữ nói rằng người mà bị kẻ khác phạm tới cách nào cũng không nổi nóng được, thì là một người ngu. Nhưng thật ra, người đó chính là một hiền triết.  Thị trưởng New York, William J. Gaynor là một người như vậy. Ông bị cơ quan ngôn luận phe đối lập cực lực công kích phỉ báng, rồi cuối cùng một kẻ quá khích bắn ông bị thương nặng. Khi được chở đến nhà thương, khi chiến đấu với tử thần, ông đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại: “Mỗi tối tôi tự nhủ phải tha thứ cho kẻ thù của mình.” Chắc bạn cho rằng ông ta đã quá lý tưởng, đã tỏ ra mình hiền hậu và hỉ xả một cách quá đáng? Bạn hãy so sánh ông ta với triết gia đại tài người Đức, Schopenhauer, tác giả cuốn ‘Học Nghiệm Về Lạc Quan Chủ Nghĩa’. Ông này coi đời người như một cuộc phiêu lưu vô vị và nặng nhọc, buồn chán lạ thường. Trong thâm tâm ông thất vọng, nhưng vẫn tự nhủ: “Phải cố làm sao không oán hận một ai.”

Tôi đã có dịp gặp ông Bernard Baruch – cố vấn chính thức của 6 đời Tổng thống Hoa Kỳ: Wilson, Harding, Coolidge, Hoover, Roosevelt và Truman. Tôi hỏi có lần nào ông bực tức vì những lời công kích của phe đối lập không thì ông đáp: “Chẳng ai có thể hạ giá trị hay làm tức tôi được. Tôi sẽ không để cho họ làm như vậy.”

Trải qua bao thế kỷ, nhân loại đã quy phục những người theo gương Chúa Trời, nhất định không chịu để cho sự thù oán giày vò. Tôi nhiều lần đứng trong Công viên Quốc gia Jasper ở Canada, chiêm ngưỡng vẻ đẹp xán lạn của một trong những ngọn núi đẹp nhất Mỹ Châu. Ngọn núi ấy là Edith Cavell, lấy tên một nữ khán hộ người Anh, người ngày 12/12/1915 đã can đảm và bình tĩnh đứng như một thần nữ trước đội quân hành hình Đức. Cô Edith Cavell bị buộc tội chứa chấp, chữa trị, nuôi tại nhà cô ở Bruxelles một số quân nhân Anh, Pháp và giúp họ trốn sang Hà Lan. Vào buổi sáng mùa đông hôm đó, khi viên cố đạo người Anh vào phòng giam cô tại nhà tù quân sự Bruxelles, cô đã thốt ra 2 câu mà sau này người ta đã khắc vào bia để hậu thế đọc và suy nghĩ: “Bây giờ con mới biết được lòng yêu nước không đủ để làm tinh thần con thư thái trước khi chết. Con phải bỏ hết oán hận, hết ý nghĩ chua chát đối với bất cứ ai.” 4 năm sau, thi hài cô được chở về Anh và nhà thờ Westmister Abbey đã làm lễ truy điệu. Ngày nay, một pho tượng đá hoa cương được dựng trước phòng Triển lãm Quốc gia – một bức tượng nhắc nhở cho những ai qua lại một vinh dự hoàn toàn nhất của nước Anh: “Bây giờ con mới biết được lòng yêu nước không đủ để làm tinh thần con thư thái trước khi chết. Con phải bỏ hết oán hận, hết ý nghĩ chua chát đối với bất cứ ai.”

Phương pháp chắc chắn nhất để quên đi kẻ thù là để hết sức lực, trí não phụng sự một chính nghĩa cao cả hơn chính bản thân ta. Lúc đó những lời thóa mạ, những hành động của người khác để hại ta sẽ chẳng quan hệ chút nào vì ta đã quyết định bỏ ngoài tai những điều không trực tiếp liên quan đến chính nghĩa mà ta phụng sự.

………

Trước đây 18 thế kỷ, Epitète đã bảo cho người đồng thời hay rằng ai gieo gió sẽ gặt bão và cuộc đời bao giờ cũng khiến cho những người phạm lỗi phải chịu quả báo về những lỗi lầm của họ. Ông nói: “Dần dà, mỗi người sẽ phải trả nợ những hành động vô luân mà y đã phạm. Kẻ nào ghi vào đầu chân lý này sẽ không bao giờ nổi nóng với ai, và sẽ không oán trách, thóa mạ, không ghét bỏ một người nào hết.”

Người bị ghét, bị vu cáo và chỉ trích nhiều nhất trong lịch sử Hoa Kỳ mà tôi biết là Abraham Lincoln. Vậy mà theo lời Herndon, người viết tiểu sử Tổng Thống Lincoln, thì ông không bao giờ xét người theo cảm tình hay sự ruồng ghét riêng. Khi cần tìm một nhân vật để giao phó cho một chức vị, Lincoln hoàn toàn thỏa thuận để cho mọi người đối lập với ông có quyền ra ứng cử như một người thuộc phe ông. Ngay cả khi nhận thấy người đáng giữ chức đó là người hay chỉ trích và vu oan mình nhiều nhất, ông cũng giao vị trí đó cho người ấy như một người bạn thân, nếu người này có đủ những điều kiện cần thiết… Ông không bao giờ đổi một viên chức chỉ vì khác chính kiến hay vì tư thù.

Đôi khi Lincoln cũng phải đối phó với sự đố kỵ của những người mà chính ông đã đưa lên địa vị cao. Tuy nhiên ông cho rằng: “Ta không thể trách một người đã làm hay không làm việc này, việc kia. Chúng ta ai cũng thừa hưởng những hoàn cảnh sinh sống, những điều kiện giáo dục và thói quen khác nhau. Chính những yếu tố này đã kết hợp và hình thành tính cách của chúng ta.”

Xét cho cùng, Lincoln nói đúng. Nếu bạn và tôi chúng ta cùng thừa hưởng của tổ tiên những đặc điểm về thể chất và tinh thần như những kẻ thù của chúng ta, nếu chúng ta cũng sống như họ, cũng hưởng những hạnh phúc hay những ưu phiền như họ, chắc chúng ta cũng hành động như họ. Chúng ta sẽ không khác họ được. Nhà triết học Clarence Darron đã tóm tắt điều này trong câu: “Biết rộng tức là hiểu nhiều và khi đã hiểu nhiều thì không chỉ trích và buộc tội ai cả.”

Trích và biên tập từ tác phẩm ‘Quẳng Gánh Lo Đi Và Vui Sống’

do cố dịch giả Nguyễn Hiến Lê chuyển ngữ từ cuốn

‘How To Stop Worring And Start Living’ của tác giả Dale Canegie

SHARE:

Trả lời