NỀN TẢNG VIÊN GIÁC

SHARE:

Nền tảng Viên Giác ấy vốn chỉ là ‘một vị’, ‘bình đẳng suốt ba thời, tròn đầy khắp mười phương”, không chúng sanh nào không có, không chúng sanh nào không ở trong đó. Thế nên mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, xúc chạm, các đối tượng của ý thức, không gì không phải là Nó. Như tất cả đồng một tánh vàng, không có gì không phải là vàng.

Bồ tát Văn Thù thưa hỏi về nhân địa thành Phật

Bấy giờ, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, quỳ thẳng chấp tay mà bạch Phật rằng:
Thế Tôn đại bi, xin vì đại chúng trong pháp hội này giảng nói nhân địa pháp hạnh bản khởi thanh tịnh của Như Lai và chỗ phát tâm thanh tịnh của Bồ tát trong Đại thừa, làm sao xa lìa các bệnh, khiến cho chúng sanh đời sau cầu nhập Đại Thừa khỏi sa vào tà kiến.
Nói xong, năm vóc làm lễ sát đất. Cầu thỉnh như vậy lặp lại ba lần.

‘Nhân địa pháp hạnh bản khởi thanh tịnh’ cũng chính là ‘giác địa thanh tịnh của tất cả chúng sanh’. Đây là nền tảng Viên Giác chung cho các bậc giác ngộ, các Bồ tát, và các chúng sanh, cho đến ‘các cõi nước thanh tịnh’. Nền tảng Viên Giác ấy chính là tâm của chúng ta.

Nền tảng Viên Giác ấy vốn chỉ là ‘một vị’, ‘bình đẳng suốt ba thời, tròn đầy khắp mười phương”, không chúng sanh nào không có, không chúng sanh nào không ở trong đó. Thế nên mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, xúc chạm, các đối tượng của ý thức, không gì không phải là Nó. Như tất cả đồng một tánh vàng, không có gì không phải là vàng.

Chính trong thực tại bổn nhiên thanh tịnh chưa từng cách hở mảy may không có chỗ cho phân biệt ta người, ta và cái của ta, ta và thế giới ấy, chúng ta đã tích tập các bệnh tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ, nghi ngờ… Để rồi cái Viên Giác hiện tiền ấy dần dần bị che khuất, lùi xa.

Tin rằng trong tánh Viên Giác, các bậc chứng ngộ không hề lập ra những chướng ngại ngăn che chúng ta với tánh Viên Giác, mà xưa nay tánh Viên Giác vẫn hiện tiền trước mặt chưa từng cách hở mảy may với thân khẩu tâm của chúng ta, đó là ta đã hiểu một phần tánh Viên Giác. Bệnh là chúng ta tự bịt mắt mình, ‘phản bội cái giác mà hiệp với trần tướng’ thì cái Viên Giác thanh tịnh bổn nhiên bỗng biến thành sanh tử luân hồi.

Trong tánh Viên Giác chưa từng có bệnh. Bệnh là do vọng tưởng, vọng thấy điên đảo của chúng ta. Không tin vào vọng tưởng, vọng thấy thì nền tảng Viên Giác lồ lộ ngay trước mặt: “Thấy các tướng chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai” (Kinh Kim Cương).

Đức Phật khen ngợi và trả lời về nền tảng tu hành

Bấy giờ đức Thế tôn bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:
Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Như các ông vì các Bồ tát và tất cả chúng sanh đời rốt sau cầu nhập Đại thừa mà thưa hỏi về nhân địa pháp hạnh của Như Lai để họ được sự trụ trì chân chánh khỏi sa vào tà kiến. Nay các ông lắng nghe, ta sẽ nói rõ.

Bấy giờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hoan hỷ vâng theo, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.

Thiện nam tử! Bậc Pháp vương vô thượng có pháp môn Đại Đà La Ni gọi là Viên Giác, từ Viên Giác lưu xuất tất cả pháp thanh tịnh Chân Như, Bồ đề, Niết bàn và các Ba la mật, dạy trao cho Bồ tát.
Nhân địa bản khởi tu hành của tất cả Như lai là đều y vào tánh giác thanh tịnh tròn đầy soi khắp (viên chiếu) này mà vĩnh viễn đoạn dứt vô minh mới thành Phật đạo.

Nhân địa bản khởi để tu hành, nền tảng để tu hành là tánh Viên Giác mỗi chúng ta đều có nơi tâm mình. Thấy hiểu nó, trụ trì nơi đó tức là ‘trụ trì chân chánh’.

Nền tảng để tu hành là tánh Viên Giác, Con đường thì không thể ngoài tánh Viên Giác này, và Quả là tánh Viên Giác đã thấy biết trọn vẹn. Như thế, bắt đầu là tánh Viên Giác, ở giữa là tánh Viên Giác, và cuối cùng là tánh Viên Giác.

Đức Phật nêu lên tông chỉ tu hành. Chư Phật đều chỉ có một tông duy nhất, một thừa duy nhất đó là tánh Viên Giác. Đại Đà la ni nghĩa là Đại Tổng trì. Viên Giác là Đại Tổng trì, vì trong đó đầy đủ tất cả Phật pháp, gồm nhiếp tất cả phàm Thánh, trời người đồng trong một tánh bản lai thanh tịnh. Viên Giác là cái ấn của pháp (pháp ấn), ấn thành tất cả các pháp tánh tướng bổn lai thanh tịnh.

“Chân Như là nghĩa Như của tất cả các pháp” (kinh Kim Cương). Bồ đề là nghĩa giác của tất cả các pháp. Niết bàn là nghĩa Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của tất cả các pháp. Sự tu hành chân thật của các Bồ tát, sự trụ trì chân chánh của chư Phật không đâu ngoài tánh Viên Giác: nhân là Viên Giác mà quả cũng là Viên Giác; tánh là Viên Giác mà tướng cũng là Viên Giác. Cũng như trong mỏ vàng, không vật gì không làm bằng vàng, đó là nghĩa ‘đều y vào tánh giác thanh tịnh tròn đầy soi khắp này mới thành Phật đạo’.

Qua đoạn kinh này những người tu hành chúng ta phải biết rõ rằng: không thể tìm sự thanh tịnh chân thật nào ngoài tánh Viên Giác, không thể tìm cái chân thường nào ngoài tánh Viên Giác, không thể có tâm từ bi thật sự ngoài tánh Viên Giác, không thể có Ba la mật ngoài tánh Viên Giác. Thân khẩu tâm của một người bình thường và của các bậc giác ngộ đều luôn luôn ở trong tánh Viên Giác.
Viên Giác như tấm gương lớn vô hạn tròn sáng mà tất cả mọi hình tướng, mọi hình bóng đều ở trong đó. Tất cả bóng đều ở trong gương, nên thấy bóng là thấy guơng. Khi thấy cái gì, cái đó phải ở trong tánh Viên Giác và là tánh Viên Giác.

Vô minh đầu tiên là mê mờ chẳng thấy ra tánh Viên Giác rồi tưởng lầm mọi sắc tướng, mọi âm thanh…, nghĩa là tất cả đời sống này, ở ngoài tánh Viên Giác mà không biết rằng ‘tất cả pháp thanh tịnh và những pháp mà người thường cho là bất tịnh đều lưu xuất từ tánh Viên giác’.

Từ vô minh đầu tiên tưởng rằng các pháp ở ngoài tánh Viên Giác rồi đi tìm Phật hay chúng sanh, ngộ hay mê, Niết bàn hay sanh tử… ngoài tánh Viên Giác này thì sai lầm càng thêm sai lầm, điên đảo càng thêm điên đảo, vọng tưởng càng thêm vọng tưởng, huyễn hoặc càng thêm huyễn hoặc.

Vô minh là gì?

Thế nào là vô minh?
Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay có đủ thứ điên đảo, giống như người mê, lầm lộn bốn phương. Vọng nhận bốn đại làm thân tướng của mình, bóng ảnh duyên theo sáu trần làm tâm tướng của mình, ví như người con mắt có bệnh thấy giữa hư không có hoa đốm và mặt trăng thứ hai.
Thiện nam tử! Hư không vốn thật chẳng bao giờ có hoa đốm. Hoa đốm chỉ có do người bệnh vọng chấp. Do vọng chấp cho nên chẳng những không biết tự tánh của hư không mà còn lầm cho là hoa đốm thật có sanh. Do cái thấy hư vọng đó mới có luân chuyển sanh tử. Thế nên gọi là vô minh.

Ngày nay chúng ta đều biết rằng mỗi loài kinh nghiệm một đối tượng thành khác nhau vì các giác quan và hệ thần kinh được cấu tạo theo kiểu khác nhau. Hơn thế nữa, mỗi cá nhân trong loài người lại cảm nghiệm theo một lối khác nhau, tùy theo những kỷ niệm đã qua và những xúc cảm riêng tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ, nghi ngờ, sợ sệt… Đây là nguyên nhân tạo ra sự không khách quan, tạo ra vô vàn khác biệt chủ quan trong cảm nhận đời sống của mỗi người. Nhưng đây chỉ mới là những nguyên nhân thô bên ngoài để tạo thành thế giới riêng của mỗi người mà Phật giáo gọi là ‘như mộng, như huyễn’. Như mộng như huyễn vì không có thật mà cho là có thật.

Nguyên nhân sâu xa, căn bản là sự sai lầm, vọng nhận rằng sự vật, chúng sanh, thế giới là có hiện hữu nội tại, nói theo thuật ngữ Phật giáo là ‘có tự tánh’. Sự vật do nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện (duyên) sanh ra; nó không thể tự giữ mãi hình dáng và bản chất của Nó. Nó là duyên sanh, không có hiện hữu nội tại, không có tự tánh. Vì vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc cho nên là tánh Không.

Chính sự mê lầm căn bản cho là có tự tánh này đã sanh ra phân biệt và chấp ta người, của ta của người, chủ thể và đối tượng, tôi và thế giới, từ đó đủ mọi thứ phiền não sanh ra, đưa con người vào sanh tử.

‘Điên đảo lầm lộn’ chính là tưởng rằng mọi sự có tự tánh. Và trong mọi sự , cái có vẻ gần gũi chúng ta nhất là thân tâm này. Thân tâm do nghiệp sanh ra, nghiệp từ vô minh chấp có tự tánh tích tập dần dần mà thành. Nhưng cũng chính từ thân tâm do nghiệp sanh này, từ cơ sở cho hiện hữu chúng ta ở cõi sanh tử này, mà chúng ta nhìn ra tánh Không, cũng là tánh Viên Giác, để giải thoát.

Xoay lại quán sát cái khởi sanh ra thế giới, cái thân tâm này, thì thấy nó không thực có, nó là duyên sanh. Nó duyên sanh từ ‘vọng nhận bốn đại làm thân tướng của mình’. Thân tướng do vọng nhận ấy lại duyên sanh với một tâm tướng cũng vọng nhận, duyên sanh từ ‘những bóng ảnh duyên theo sáu trần’ mà có. Thân tâm chỉ là những duyên sanh không cùng của những điều ngộ nhận.

Do cái thấy chân thật, cái chánh kiến mà người ta nhận ra thân tâm này là hoa đốm và mặt trăng thứ hai, đồng thời nhận ra cái nền tảng bản khởi cho các vọng nhận, vọng chấp này. Khi thấy thân tâm là hoa đốm thì người ta đồng thời thấy ra hư không từ đó có ra hoa đốm. Khi thấy thân tâm là mặt trăng thứ hai thì người ta thấy ra mặt trăng thứ nhất là nhân địa bản khởi cho mặt trăng thứ hai. Khi thấy như huyễn thì người ta thấy được tánh Không hay tánh Viên Giác và ngược lại, khi thấy trực tiếp tánh Không hay tánh Viên Giác thì người ta thấy ra thân tâm và thế giới này là như huyễn.

Tất cả chúng ra từ xưa nay vẫn hằng ở trong tánh Viên Giác “tịch diệt, bình đẳng suốt ba thời, viên mãn khắp mười phương” bao la ấy mà lại nhận mớ hoa đốm cỏn con là thân tâm và thế giới để uổng chịu luân hồi. Biết hoa đốm chưa từng có sanh, biết mặt trăng thứ hai chưa từng có người nào thấy, ngay đó chứng Vô sanh. Hư không vốn Vô sanh, đó là tánh Viên Giác, đó là tâm vốn sẵn của chúng ta.

Thế nên, hễ có tướng thì biết đó là bệnh. Có ta, có người, có chúng sanh, có thế giới thì đó là vọng nhận, vọng thấy điên đảo. Cái điên đảo này chưa từng có gốc gác, cái điên đảo này là vô sanh.
Kinh Kim Cương nói: “phàm hễ có tướng đều là hư vọng”. Tất cả những cái có đều là vọng có, sắc thọ tưởng hành thức đều là hoa đốm vọng hiện. Chúng là vô sanh.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “A Nan, xét kỹ thì sáu nẻo luân hồi đều là tướng hữu vi chìm đắm, do vọng tưởng mà thọ sanh, do vọng tưởng mà theo nghiệp. Trong Bản Tâm Diệu Giác vô tác thì cả thảy đều như hoa đốm giữa hư không, không chỗ nào dính bám, chỉ là hư vọng, không gốc rễ mối manh… Vậy thì mười phương cõi nước nhiều như vi trần đều do vọng tưởng điên đảo kiến lập. Phải biết hư không sanh trong tâm ông cũng như điểm mây sanh trong bầu trời, huống chi các thế giới ở trong hư không ấy! Một người trong các ông khởi sự về nguồn thì mười phương hư không ấy thảy đều tiêu mất”.

Rõ ràng, bệnh của chúng ta là ham thấy bóng quá nên không còn nhận ra gương, ham thấy hoa đốm quá nên không thể thấy hư không. ‘Do vọng chấp cho nên chẳng những không biết tự tánh hư không mà còn lầm cho là hoa đốm thật có sanh’.

Khi thấy ra hoa đốm, thấy ra bóng thì mới biết rằng từ xưa nay mình vẫn thường trụ như hư không, vẫn sáng ngời như tấm gương không hề ô nhiễm; xưa nay mình vẫn là tâm Viên Giác thường định và quang minh.

Vô minh không có thật thể

Thiện nam tử! Cái vô minh ấy chẳng có thực thể. Như người trong mộng, khi mộng chẳng phải là không có, đến khi tỉnh dậy mới rõ ràng là không có. Như các hoa đốm trong hư không diệt mất giữa hư không, chẳng thể nói là thực có chỗ diệt mất. Vì sao vậy? Vì không từng có chỗ sanh ra.
Hết thảy chúng sanh vẫn ở trong chính tánh vô sanh mà vọng thấy có sanh diệt, thế nên gọi là luân chuyển sanh tử.

Tất cả vốn là một mà thấy ra sai khác, đó là huyễn, đó là vô minh. Tất cả vốn là một mà thấy ra sai khác, đó là thấy hoa đốm. Rồi nơi cái vọng thấy có sai khác mà không biết là huyễn, là hoa đốm ấy, bèn có đủ thứ hành động, tạo thành đủ thứ nghiệp mà trôi lăn trong sanh tử theo dòng nhân quả.

Hư không chưa từng có hoa đốm mà thấy ra có hoa đốm, mặt trăng vẫn một mà thấy ra cái thứ hai, cái vọng hiện ra ấy là vô minh. Cái vọng hiện đó không do bởi đâu, không căn cứ vào đâu, không nương tựa vào đâu, không từng có tự tánh. Ngay đây mà thấu suốt được ‘cái vô minh không có thực thể’ thì ba đời mười phương, tất cả thời gian không gian trọn liền tiêu hoại, nhất thời giải thoát, chứng ngay Vô sanh pháp nhẫn.

Tâm trong mộng phóng chiếu ra cảnh như thế nào thì tâm khi thức phóng chiếu ra cảnh cũng như thế ấy. Không có ánh sáng phóng chiếu của tâm thì không có cảnh nào hết, cảnh mộng cũng như cảnh thức. Phóng chiếu ra những cái gì, đó là do nghiệp riêng và nghiệp chung. Nhưng sở dĩ cho đó là thực vì không biết những cảnh ấy là vô tự tánh, rồi gia tăng thêm sức nặng cho chúng bằng đủ loại phiền não. Khi đạt đến bản tánh của tâm, nguồn sáng của mọi phóng chiếu, thì mới biết rằng đó chỉ là giấc mộng không thực, chưa từng có thực.

Ngay khi đang thấy cảnh, dầu thức hay mộng mà biết những phóng chiếu ấy chính là ánh sáng căn bản của tâm (quang minh tạng), bèn biết được tâm Viên Giác quang minh của mình, khi ấy vô minh phân biệt tạo thành giấc mộng sanh tử biến mất.

Khi khổ đau vì nhìn thấy hoa đốm, bèn thiền định thiền quán nhìn kỹ lại: hoa đốm biến mất, bởi vì tâm vốn không có vật gì. Biến mất mà chẳng thể nói là có chỗ diệt mất, vì chưa từng sanh ra vậy. Ngay sự thật ‘chưa từng có chỗ sanh ra’ mà rõ suốt ắt là nghiệp thức bao đời tan biến như hoa đốm giữa hư không.

Hết thảy chúng ta từ vô thủy đến nay vẫn ở trong cái thể vô sanh ấy, chưa từng chệch ra ngoài một mảy lông, cọng tóc. Hết thảy chúng ta xưa nay thường trụ trong cái chỗ ‘chưa từng có chỗ sanh ra’, chưa từng có chút cách hở cho một vọng tưởng hoa đốm vọng hiện. Thế mới biết là hư không chưa từng có hoa đốm, vô minh không hề có thực thể, làm thế nào để nói chuyện hoa đốm sanh hay chẳng sanh, diệt hay chẳng diệt ư?

Phật dạy cái biết của Viên Giác

Thiện nam tử! Nhân địa của Như Lai tu Viên Giác là: biết đó là hoa đốm giữa hư không, tức không có luân chuyển cũng không có thân tâm nào thọ nhận sanh tử hoa đốm kia.
Cái không sanh tử, không thân tâm này chẳng phải làm ra mà gọi là không, bản tánh của chúng tự là Không.
Cái biết này giống như hư không, cái biết hư không này cũng là tướng hoa đốm. Nhưng cũng không thể nói là không có tánh biết. Có, không đều mất hết, đó gọi là tùy thuận tánh Viên Giác thanh tịnh.

Nền tảng tu hành Viên Giác của Như Lai là: Trong Viên Giác không có các tướng thân tâm và thế giới như hư không thật chưa bao giờ có tướng hoa đốm. Thế nên, biết tất cả những tướng có kia đều là hoa đốm hư vọng giữa hư không, liền đồng thể với tánh Viên Giác thanh tịnh, bèn không có luân hồi sanh tử nào và cũng không có hoa đốm nào để thọ nhận các thứ hoa đốm vọng tưởng điên đảo kia.

Cái không có sanh tử, thân tâm hoa đốm ấy chẳng phải làm cho thành không mà gọi là không, bản tánh của chúng tự là Không. Chẳng phải đánh tan, dẹp trừ hoa đốm để thành lại hư không. Hoa đốm chẳng phải do nhóm họp lại mà thành lớn, chia chẻ ra mà thành nhỏ. Trong hư không, hoa đốm chẳng bao giờ có sanh, thế nên dùng biện pháp gì để đánh tan chúng, biến đổi chúng đều là thừa, là vô ích.

Đoạn trước nói, “Y vào tánh Giác thanh tịnh tròn đầy soi khắp này mà vĩnh viễn đoạn dứt vô minh mới thành Phật đạo”. Y vào tánh Giác là y vào Đại quang minh tạng, trong đó mọi xuất hiện đều từ ánh sáng và đồng nhất với ánh sáng. Thế nên mọi sự xuất hiện khác biệt tạo thành sanh tử đều là hoa đốm giữa hư không, đều là như huyễn.

Thấy những sự khác biệt, có đến có đi, có sanh có diệt, có tăng có giảm, có dơ có sạch….là như huyễn, đó là con đường đoạn dứt vô minh mà thành Phật đạo. Thấy như huyễn tức là an trụ trong tánh Giác đại quang minh tạng. Thấy như huyễn nhiều hay ít thì hoa đốm sanh tử tiêu tan nhiều hay ít. Thấy các bóng trong gương là như huyễn đến phần nào thì mặt gương sáng sạch thanh tịnh của tâm hiển lộ phần đó.

Chỉ một cái Thấy Biết là đủ. Tất cả các pháp, tánh tướng tự không, không phải thêm bớt, phá hoại, quán tưởng tạo tác gì. ‘Ở bên ngoài’ là vậy, ‘ở bên trong’ cũng vậy. Tâm vốn tự là Không, không có vọng tưởng hay chân tưởng nào có thể được.

Tánh Viên Giác hay Chân Không hay Đại quang minh tạng là như vậy, mãi mãi như vậy, không thể thêm bớt , tạo tác hay trừ diệt manh mún nào. Nó không cần người chứng biết hay không chứng biết nó. Nó vốn toàn đủ, toàn thiện (Viên) và thường hằng Biết (Giác) như vậy.

Nhưng người tu hành không dễ gì mà một lần biết nó trọn vẹn. Nói theo thuật ngữ của Kinh Pháp Hoa, một lần ngộ chưa đủ, còn phải nhập cho đến lúc hoàn hảo như nó vốn hoàn hảo.

Thế nên Đức Phật không chỉ nói “đốn giác” mà còn nói đến “tiệm giác”. Cái không sanh tử, không thân tâm này không chỉ đốn chứng một lần là trọn vẹn, mà trong nhiều đời kiếp sự chấp ta chấp pháp đã sâu dày nên phải cẩn thận chỉ rõ.

‘Cái biết hư không’ này vẫn còn cạn, nên phải nói ‘cái biết hư không’ này cũng là tướng hoa đốm. Ngộ tánh Viên Giác nhưng còn thấy mình ngộ còn chúng sanh và thế giới thì chưa ngộ, thì chấp ngã và chấp pháp vẫn còn ngủ ngầm trong thân tâm. Bởi vì Viên Giác thì toàn khắp không chừa một ai hay một sự vật nào.

Khi cái biết hư không còn cạn, bèn có thể lệch một bên mà cho hư không ấy không có tánh biết. ‘Như hư không’ và tánh biết, cái rỗng rang và tánh quang minh, cả hai hợp nhất mới thật là tâm Viên Giác.
Khi còn phân biệt có, không, chỗ này có chỗ kia không, ta có người không hay người có ta không, thì chưa thể gọi là tùy thuận hoàn toàn tâm Viên Giác hay trí huệ bổn nguyên.

Tánh Viên Giác là Như Lai tạng hay Pháp giới tánh.

Vì sao thế? Vì tánh hư không vốn thường chẳng động, trong Như Lai tạng không có khởi diệt vì không có sự thấy biết, như pháp giới tánh rốt ráo viên mãn khắp cả mười phương.
Đó chính là nhân địa pháp hạnh của tất cả Như Lai.
Bồ tát nhân vào đó mà phát tâm thanh tịnh,ở trong Đại thừa, chúng sanh đời sau y vào đó mà tu hành thì chẳng sa vào tà kiến.

Nhân địa để y cứ vào đó mà khởi phát (bản khởi) các hạnh tu hành (pháp hạnh) của Như Lai và các bồ tát là tánh Viên Giác, hay Như Lai tạng, hay Pháp giới tánh.

‘Nhân vào đó, y vào đó’ mà tu thì mới là hạnh đúng pháp, hạnh y theo pháp (pháp hạnh). Còn nếu không y vào cái tâm bất sanh bất diệt vốn sẳn nơi mỗi chúng sanh lại y vào tâm vọng tưởng sanh diệt mà tu, thì nói theo Kinh Lăng Nghiêm, chỉ như nấu cát mà muốn thành cơm.

Nếu không y vào tâm Viên Giác bổn lai thanh tịnh luôn luôn hiện tiền ấy, nếu không y vào cái đang rõ ràng trước mắt (vì ‘bình đẳng suốt ba thời, viên mãn khắp mười phương’), cái bất sanh bất diệt vì ‘chưa từng có chỗ cho hoa đốm sanh ra’ ấy, thì lấy cái gì mà tu?

Bài kệ trùng tuyên.

Bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Văn Thù ông nên biết
Tất cả chư Như Lai
Từ nhân địa căn bản
Đều lấy trí huệ giác
Rõ suốt hết vô minh
Biết đó như không hoa
Liền khỏi hẳn lưu chuyển.
Lại như người trong mộng
Tỉnh rồi không thể có
Tánh giác như hư không
Bình đẳng không động chuyển
Giác khắp mười phương cõi
Tức đắc thành Phật đạo.
Các huyễn không chỗ diệt
Thành đạo cũng không đắc
Bản tánh vốn viên mãn
Bồ tát ngay trong đó
Mà phát tâm Bồ đề
Chúng sanh đời rốt sau
Tu đấy khỏi tà kiến.

Nhân địa căn bản của tất cả Như Lai là ở ngay trong tánh giác vốn viên mãn mà rõ suốt hết thảy vô minh đều không có chỗ nào sanh ra, không có chỗ nào diệt mất, liền ngay đó thật chứng tánh Giác vô sanh. Cái luân hồi sanh tử của chúng ta chỉ là hoa đốm vọng thấy giữa hư không, biết đó là hoa đốm thì tất cả chỉ là bản tâm tánh Giác bình đẳng thanh tịnh không động chuyển.

Còn huyễn là gì? Huyễn sở dĩ có là vì không biết tất cả là tâm Viên Giác bình đẳng suốt ba thời, viên mãn khắp mười phương, mà lại thấy có thế giới, chúng sanh ở ngoài mình và không biết đó là thực tại Viên Giác. Từ cái không biết (vô minh) căn bản này, lại gia thêm đủ thứ thức tưởng phân biệt thành ra cái vốn là Chân mà thành ra huyễn hóa không thật.

Khi thấy biết tất cả những sự vật và sự việc trước mắt đều là việc của người trong mộng thì cái tâm lưu chuyển trở về bản tánh vốn viên mãn của nó. Ánh sáng của tánh Giác chiếu khắp mười phương, đến rốt ráo thì trọn thành Phật đạo.

Cái thấy biết này chính là bản tâm tánh Giác, bình đẳng, bất động như hư không, sáng khắp mười phương cõi, không đâu chẳng có. Trong tánh giác rỗng không vô biên (Không) và sáng khắp (Minh), các hoa đốm vô minh đều tiêu mất sạch, vì tất cả đều là tánh Giác Không Minh. Trong tánh Giác Không –Minh, tất cả vốn viên mãn, nên ‘thành đạo cũng không đắc’.

Bản tâm tánh giác đó là nhân địa căn bản, là cái chánh nhân thành Phật vốn có nơi mỗi chúng sanh. Nhân địa ấy cũng là quả địa. Thế nên tu nơi nhân tới đâu thì thấy quả tới đó.

Ở trong chánh nhân đó, gọi là chánh kiến. Lạc ngoài đó gọi là tà kiến. Trong đó thì không ta, không người, không chúng sanh, không thọ giả, chỉ thuần một tâm Viên Giác. Còn hễ có tướng ta, người, chúng sanh, thọ giả là đã lạc ngoài tâm Viên Giác, lạc vào phân biệt vô minh. Sắc thọ tưởng hành thức mà có, đó là đuổi theo hoa đốm, để uổng chịu nổi trôi sanh tử. Sắc thọ tưởng hành thức mà không, đó là tâm Viên Giác thanh tịnh khắp mười phương vậy.

Khi không phân biệt tức là ở trong chánh nhân, trong chánh kiến. Khi không phân biệt, lúc đó tâm Viên Giác hiện tiền.

 

KINH VIÊN GIÁC LƯỢC GIẢNG
Đại Phương Quảng Viên Giác Liễu Nghĩa Kinh
Đời Đường, nước Kế Tần, Sa Môn Phật Đà Đa La dịch
ĐƯƠNG ĐẠO
THIỆN TRI THỨC 2015

SHARE:

Để lại một bình luận