SHARE:
Bất cứ những nguyên nhân nào gây ra cảm giác vô giá trị, phương thuốc mạnh mẽ là ở trong sự thấu biết rằng chúng ta toàn thiện trong thật tánh của mình. Nếu hiểu điều này, sự tự tin và sung mãn sẽ phát khởi tự nhiên trong chúng ta. Cốt yếu cần nhận ra sự quan trọng của việc hiểu biết này, tối thiểu trên mức độ khái niệm. Sau đó, nếu chúng ta có bất cứ phẩm tính tốt nào trong cuộc sống, cho dù nhỏ, chúng ta phải tự tu tập để nhận ra và cảm thấy tốt đẹp về nó. Đây là cách thiết lập thói quen của một tâm tích cực. Khi chúng ta kinh nghiệm và tiếp nhận năng lượng tích cực, dù nó nảy sinh từ một kinh nghiệm đơn giản thôi, nó sẽ mang lại cảm giác thỏa mãn cho phép chúng ta khai triển hạnh phúc và sung mãn lớn lao hơn.
Niềm tin là đồng minh tốt nhất của chúng ta, giúp ta biết cách tu tâm và khai mở những sức mạnh của chúng ta. Chúng ta cần tin vào chính mình và con đường mình theo đuổi. Nếu chúng ta không có lòng tin, thì thậm chí tâm nửa vời của ta cũng chẳng làm nổi một cái bánh nướng dở dang.
Một số chúng ta thiếu tự tin. Chúng ta cảm thấy không hy vọng và không đầy đủ – quá yếu đuối để phấn đấu cho mục đích cao hơn. Thiếu tự tin có thể là kết quả của đặc tính tinh thần hay sự giáo dục. Nếu là do đặc tính tinh thần, điều này khó thay đổi, nhưng nếu do sự dạy dỗ, làm chậm việc phát triển của chúng ta, thì nó không khó để thay đổi và tăng trưởng.
Chướng ngại chung cho những lợi lạc của những chỉ dạy là thái độ tội lỗi. Nền văn minh hiện đại đã đem lại cho chúng ta những thuận lợi nổi bật, nhưng hình như nhiều người, đặc biệt trong xã hội cạnh tranh, có cảm giác phạm tội và không giá trị. Một số trong chúng ta có thể nói : “Tôi không xứng đáng được hạnh phúc, cái ấy phải để cho người khác, những người may mắn hơn” hoặc “Công việc này dành cho người khác, không phải cho tôi” hay “Thật không tốt khi tôi trải nghiệm an bình trong khi nhiều người khác phải đấu tranh.”
Nếu chúng ta thành thật lo nghĩ về sự ích kỷ, chúng ta đáng được khen vì thái độ tuyệt vời này. Nếu chúng ta tôn trọng và chăm sóc người khác hơn bản thân mình, đó là cốt lõi của việc thực hành đạo Phật, và một thái độ như vậy tự nhiên giúp chúng ta nhiều sức mạnh và rộng mở. Nhưng phần lớn những cảm giác tội lỗi ấy chỉ che đậy cho sự không an toàn của mình, một dạng khác của sự chấp ngã, một sự bào chữa cho việc không cố gắng cải thiện cuộc sống của chúng ta. Cảm thấy không giá trị và chống lại hạnh phúc và an bình thì phi lý như nói, “Vì tôi đói, tôi không muốn ăn.”
Một lý do khiến chúng ta thiếu tự tin là không khí cạnh tranh chung quanh mình. Bắt đầu ở mẫu giáo, nhiều đứa bé xây dựng thói quen cảm thấy chúng không đủ tốt, vì trong lớp có bạn nào tốt hơn thì được cho phần thưởng. Trở nên tốt nhất là hàng hóa giá trị cao trong thế giới hiện đại.
Trẻ em bị người lớn la mắng với sự buộc tội và khiển trách, chúng cảm thấy bị áp lực lớn về tâm lý và tội lỗi. Một số cha mẹ khiển trách con cái vì không làm được việc, và thậm chí khi họ khuyến khích, vẫn chỉ là một dạng áp lực nếu không cho chúng một tình thương vô điều kiện.
Bất cứ những nguyên nhân nào gây ra cảm giác vô giá trị, phương thuốc mạnh mẽ là ở trong sự thấu biết rằng chúng ta toàn thiện trong thật tánh của mình. Nếu hiểu điều này, sự tự tin và sung mãn sẽ phát khởi tự nhiên trong chúng ta. Cốt yếu cần nhận ra sự quan trọng của việc hiểu biết này, tối thiểu trên mức độ khái niệm. Sau đó, nếu chúng ta có bất cứ phẩm tính tốt nào trong cuộc sống, cho dù nhỏ, chúng ta phải tự tu tập để nhận ra và cảm thấy tốt đẹp về nó. Đây là cách thiết lập thói quen của một tâm tích cực. Khi chúng ta kinh nghiệm và tiếp nhận năng lượng tích cực, dù nó nảy sinh từ một kinh nghiệm đơn giản thôi, nó sẽ mang lại cảm giác thỏa mãn cho phép chúng ta khai triển hạnh phúc và sung mãn lớn lao hơn.
Nhiều thế kỷ trước, nạn đói nghiêm trọng quét qua một thung lũng ở Tây Tạng. Một người cha thấy rằng mình và đứa con không thể sống lâu hơn được vì thực phẩm đã cạn, và ông ta nhét đầy tro vào các túi, buộc lại và treo lên trần rồi bảo với những đứa con còn bé : “Chúng ta có nhiều tsampa trong những túi này, nhưng phải để dành cho những ngày sau” (tsampa là bột mì nướng, một thực phẩm chủ yếu của Tây Tạng). Sau cùng người cha chết vì đói, nhưng những đứa bé vẫn sống sót cho đến khi có người đến cứu. Mặc dù chúng yếu hơn người cha nhưng vẫn còn sống được vì chúng tin rằng còn thức ăn, còn cha chúng chết vì mất hy vọng.
Dĩ nhiên, luân lý của câu chuyện là sự tự tin giúp sức mạnh cho thân và tâm. Tuy nhiên, chân lý như nó liên hệ với cuộc sống chúng ta thì khơi gợi nhiều hơn sự cá biệt của câu chuyện. Không giống như những túi tsampa, bản tính thanh tịnh của chúng ta không chỉ là sự tưởng tượng nhằm vào việc xây dựng tự tín mà nó đặt nền trên chân lý rốt ráo nhất.
Không dễ dàng phát triển niềm tin vào chính chúng ta và những bài tập chữa bệnh, vì chúng ta bị chất đầy những nỗi nghi ngờ, sợ hãi vô tận. Nhưng nếu phá vỡ được những thói quen hàng ngày và đi vào tu tập, thậm chí trong thời gian ngắn, chúng ta có thể kinh nghiệm một số lợi ích thật sự.
Không an trú trong cảm giác tội lỗi, chúng ta phải tự hiến mình để cải thiện những khéo léo của chúng ta, phát triển tâm bi và rộng mở. Sau khi thực hành được một lúc, chúng ta sẽ tìm thấy bình thản và thái độ tích cực sẽ tăng trưởng.
NHÌN VÀO SỰ TIẾN TRIỂN CỦA MÌNH
Nhận ra tiến triển của mình, chúng ta cảm thấy sự tự tin tự nhiên trong khả năng chúng ta. Vậy, tự hiến mình cho một cơ hội mà không sợ hãi và nghi ngờ là cách tốt nhất có được tự tin.
Sau khi thực hành được một thời gian, nếu cảm thấy chán hay mỏi mệt, vì cảm thấy chúng ta sao còn quá xa với mục đích của cuộc hành trình tâm linh, chúng ta phải nhìn lại cuộc sống trước ngày bắt đầu tu tập và tán thưởng bất cứ tiến triển nào đạt được. Thậm chí khi có cảm giác thụt lùi so với sự tiến bộ của mình, điều này vẫn cần được tán thưởng. Bước tụt hậu hay đi đường vòng, thử nghiệm hay lầm lỗi, là tất cả thu góp phần vào quá trình phát triển. Đau khổ tăng trưởng có thể có vẻ như tiêu cực, nhưng chúng ta có thể thấy chúng tích cực bằng cách tự nhủ : “Tôi đã lùi một bước, và đây là một phần của hành trình về phía trước.”
Suy nghĩ tích cực là thực hành tâm linh lành mạnh, và nó cũng tạo ra lương tri. Khi chúng ta xây một căn nhà, nếu ta chỉ nghĩ về công việc to lớn chưa được hoàn tất thì chúng ta thấy nản lòng, mệt mỏi, thất vọng. Nhưng nếu ta nghĩ nhiều hơn về những gì ta đã hoàn tất hơn là những gì còn phải làm thì chúng ta cảm thấy hạnh phúc và điều đó cũng cho ta năng lực, cảm hứng để làm nhiều việc hơn.
Trên một hành trình dài, nếu chúng ta cứ nhìn hướng đến mục đích xa xôi của mình, chúng ta có thể cảm thấy chán nản vì con đường có vẻ vô tận. Nhưng nếu ta ngồi xuống, nhìn vào con đường chúng ta đã đi được, cái nhìn có thể đầy thỏa mãn và khuyến khích.
PHÓNG LỚN NGAY CẢ TIẾN BỘ ĐƠN GIẢN
Trong bất kỳ việc tu tập nào, sự khuyến khích rộng lượng có thể phóng lớn kết quả và đưa chúng ta đi xa hơn. Khả năng của ta được phóng lớn vượt khỏi cố gắng lúc đầu, giống như tiền vốn phát triển và tăng lên nhiều lần trong một cuộc đầu tư tốt, ngược lại với đồng tiền không được đầu tư gì cả.
Cho dù tiến bộ của ta bé nhỏ, nếu chúng ta tán thưởng nó như là cái gì có ý nghĩa và có giá trị, nó trở nên một thành tựu đầy năng lực. Vậy, hãy nhận ra những phẩm cách tốt của mình và những bước nhỏ mình đã đi. Hãy tự nhủ, “Tuyệt thay ! Tôi đã tạo ra tiến bộ này !” Sau đó, một cách tự phát, sự tiến triển sẽ được phóng lớn và những chướng ngại sẽ bị giảm thiểu.
Việc phóng lớn tiến bộ và vui thích làm mạnh mẽ sự an bình và thỏa mãn và trang bị cho chúng ta làm bình lặng với những khó khăn. Giả sử, chẳng hạn có một tiếng ồn từ cửa sổ kế bên, và chúng ta nhiều giờ không ngủ được, nhưng sau một lúc, âm thanh ồn giảm dần. Nếu chúng ta nhận ra và vui thích với sự giảm âm thanh thay vì lo nghĩ về tiếng ồn vẫn tiếp tục, nó sẽ làm cho chúng ta thoải mái và chúng ta ngủ dễ dàng, vì đó là năng lực của sự hân thưởng.
Sự hân thưởng và bằng lòng, khả năng sung sướng trong mọi việc dù lớn hay nhỏ, là sự tu tập chính yếu của đạo Phật. Kinh Pháp Cú (Dharmapada) dạy :
Sức khỏe tốt là thành tựu tuyệt hảo nhất.
Bằng lòng là giàu có tuyệt hảo nhất.
Bạn hòa hợp là bạn tuyệt hảo nhất.
Niết Bàn là hạnh phúc tuyệt vời nhất.
TRI GIÁC THANH TỊNH
Thói quen nhìn sự vật là xấu hay tốt, được tạo ra trong tâm ta. Chuỗi cảm xúc trong tâm ta – thích và không thích, thèm muốn và sân hận – tạo ra thêm đau khổ hay thèm khát. Cách chuyển hóa những phản ứng thói quen của ta là đem một thái độ tích cực vào mỗi tình huống và cảm nhận sâu xa năng lượng tích cực.
Tri giác trong sạch có nghĩa là thấy tất cả mọi sự đều thanh tịnh, toàn thiện, hỷ lạc và giác ngộ. Trong đời sống hàng ngày của chúng ta, có vẻ chúng ta bị phiền não đè nặng. Tuy nhiên, quan điểm đạo Phật cho rằng những phiền não, trong bản tánh tối hậu của chúng, cũng giống như những ngọn sóng trên bề mặt đại dương. Một cơn bão có thể thổi những ngọn sóng trên bề mặt, nhưng đại dương bên dưới vẫn tĩnh lặng.
Chúng ta có thể tìm thấy an bình trong một kinh nghiệm khó khăn và thấy việc gì đó tích cực ngay cả nếu nó dữ dội trong sự biểu lộ bề mặt của nó. Nếu chúng ta thấy điều gì đó là an bình, cho dù nó có vẻ như rất tiêu cực, chúng ta phải nhận biết cảm giác an bình trong tâm một cách có ý thức và an trú trong kinh nghiệm đó.
Tiêu cực hay tích cực, tri giác này tùy thuộc vào tâm ta. Nếu chúng ta thấy vật gì đó tích cực, thậm chí nếu chỉ là một tách trà nó cũng có thể trở thành đối tượng của niềm vui nhờ tri giác của chúng ta. Nếu chúng ta thấy cũng cùng tách trà đó một cách tiêu cực, thì nó là khó chịu.
Thay vì luôn áp đặt quan điểm theo thói quen của ta lên sự vật, nó có thể giúp ta tự nhắc nhở làm thế nào để mở ra một thế giới thay vì giải thích nó. Chẳng hạn, nhìn một cái cây, một bác sĩ có thể thấy là vị thuốc hay chất độc. Một nhà buôn tính toán giá trị tiền bạc của nó, và người thợ mộc đo lường khả năng xây dựng của nó. Một nhà khoa học phân tích xung lực hóa học và điện năng của nó. Người say rượu thấy cái cây như một bánh xe quay trên đầu anh ta. Nhà thơ có thể đắm mình trong vẻ đẹp của nó. Một người Công giáo có thể thốt ra lời cầu nguyện ca ngợi sự sáng tạo của Thượng Đế. Một Phật tử thấy cây như là một biểu hiện của duyên sinh hay một biểu hiện của an bình tối hậu.
Mở rộng cái nhìn của chúng ta có thể nới lỏng sự chấp ngã của chúng ta và cho phép chúng ta nhận những tạo tác của riêng tâm thức chúng ta và những thói quen che tối bản tánh an bình của chúng ta như thế nào. Ngài Tsultrim Lodroš viết :
Do đạt đến giải thoát khỏi những thói quen của ba
che chướng –
Của thân, tâm, và những đối tượng –
Chúng xuất hiện như những thân Phật, trí huệ,
và những cõi Phật.
Ở đây chúng ta phải nhớ rằng mục đích tu tập của đạo Phật không phải là rời bỏ thế gian này để đến một thế giới tốt hơn hay ở cõi trời. Chúng ta có thể tìm thấy an bình trong chính thế giới này, nhưng bởi vì bản tính an bình bên trong chúng ta thường bị che lấp, chúng ta choáng váng giống như người bị thương phải đối phó với những trận chiến của cuộc đời. Tri giác thanh tịnh có thể chữa lành chúng ta. Nếu chúng ta tu tập tâm mình chấp nhận những khó khăn là tích cực, thì ngay cả những vấn đề rất khó khăn cũng có thể trở thành nguồn hạnh phúc thay vì đau khổ.
Đau khổ có thể là vị Thầy lớn. Sự thất vọng, chán nản có thể đánh thức chúng ta dậy. Nếu đời sống quá dễ dàng, chúng ta có thể không bao giờ nhận ra an bình đích thực. Nhưng nếu chẳng hạn chúng ta bị mất tiền, nó có thể gây cho ta tìm thấy sự thật (chân lý). Có thể chúng ta biết cách không quan tâm quá nhiều về tiền bạc, và sẽ biết an bình, sức mạnh là gì. Một số người rất nghèo nhưng rất vui vẻ. Điều này nói lên đau khổ là tương đối biết bao và tâm có thể tìm thấy hạnh phúc ở bất kỳ hoàn cảnh bên ngoài như thế nào.
Chúng ta phải nhớ rằng dưới những cơn bão lo nghĩ trên bề mặt là sự an bình. Chúng ta có thể chữa lành đau khổ của mình bằng cách ứng xử khéo léo với những khó khăn của đời sống. Mọi việc đều vô thường và thay đổi. Thay vì xem thay đổi là tiêu cực, hãy thấy nó là tích cực và rút ra lợi lạc từ nó. Việc nó là vô thường, vì tính chất thay đổi của nó, cho phép chúng ta cải thiện cuộc sống mình, nếu chúng ta chọn lựa như thế.
Ngay cả những vấn đề khó khăn nhất, như bệnh tật nghiêm trọng, thân xác lão hóa, có thể được nhìn một cách tích cực. Chúng ta có khuynh hướng xem “bản ngã” là thường, nhưng thật ra bản ngã, với mọi tham dục và bám níu, là không bền vững. Khi đau đớn xảy đến, tất cả ảo tưởng của ta sụp đổ và bị cuốn đi như lâu đài bằng cát bị cơn sóng lớn đầu tiên cuốn xuống biển. Gia đình, nhà cửa, đồng nghiệp, mọi cái yêu thích của đời sống sẽ biến mất.
Nhưng chúng ta có thể thấy ngay cả những khoảnh khắc cùng cực, khi cơ thể chịu đựng bệnh tật tàn phá hoặc cái chết tiến gần, là những cơ hội vui vẻ và tích cực. Chính lúc bấy giờ chúng ta có thể thấy chân lý về sự buông bỏ bản ngã.
Jigme Gyalwe Nyugu thuật lại một cuộc hành hương lúc còn thanh niên với người Thầy và là sư huynh của mình, Rinpoche Dodrupchen Thứ Nhất, đi qua một vùng đất không người vùng Yadrog trung Tây Tạng. Vị Thầy của ngài trở bệnh nặng nhưng vẫn rất vui vẻ, Ngài Jigme Gyalwe Nyugu viết :
Khi chúng tôi, thầy và trò đi xuống phía thung lũng Yadrog, Đức Lama Dodrupchen trở bệnh trầm trọng vì không khí ẩm thấp và bệnh thấp khớp. Ngài bị đau đớn, nhức nhối liên tục và trở nên yếu đi hầu như gần chết. Chúng tôi không còn gì nhiều để ăn ngoại trừ một mẩu thịt mỡ đã nát và một bình dầu. Chúng tôi không có đến một muỗng tsampa. Chúng tôi uống trà đen.
Sau khi Ngài ngồi xuống nghỉ, để giúp Ngài đứng dậy tôi dùng hai tay đem hết sức mạnh đỡ Ngài. Mặc dầu thân xác đang trong một tình trạng nguy kịch, thay vì buồn chán, Ngài lại nói : “À, hôm nay tôi có dịp mang theo một ít khổ hạnh trong thực hành pháp bằng cách áp chế thân xác hoang dã phải chết và tâm tham lam, gây thương tổn của tôi. Tôi đang đạt đến cái tinh túy của đời sống con người quý giá. Không còn nghi ngờ rằng những kinh nghiệm khó khăn này tôi đang trải qua là kết quả may mắn được tạo ra bởi sự tích lũy công đức và là sự tịnh hóa những che chướng ở nhiều kiếp trong quá khứ.” Đó là đại hỷ lạc trong tâm Ngài.
Tôi cũng vui vẻ theo, nghĩ rằng : “Tuyệt vời thay ngài Lama đang đưa vào thực hành lời Phật dạy :
‘Hãy giữ gìn mãi mãi Pháp,
Cho dù phải trả giá bằng việc
Vượt qua tường lửa hay đi trên cánh đồng đầy lưỡi dao’.”
Đôi khi vị Lama không nhìn thấy, tôi khóc và nghĩ : “Vị thánh nhân này đang hấp hối ở một nơi mà nhân loại không được thấy hay nghe về Ngài.”
Chúng ta có thể học buông xả bám chấp qua thiền định và qua tu tập. Sau đó một khi những khó khăn thân xác quấy rối, chúng ta sẽ cảm thấy ít nghiêm trọng, hay thậm chí biến mất hoàn toàn. Tất cả chúng ta biết rằng có một số người lại dễ dàng chịu đau đớn hành hạ hơn những người khác. Một số người không cần thuốc giảm đau (Novocaine) khi nha sĩ nhổ răng họ, trong lúc những người khác bắt đầu cảm thấy đau trước khi đến nha sĩ.
Chúng ta không nói đến thói bạo dâm ở đây, tìm kiếm đau đớn chỉ vì thích đau đớn. Trái lại, mục tiêu của chúng ta là phát triển một thái độ có thể chuyển đổi tác động và tri giác về đau khổ và đau đớn. Nếu chúng ta bị đau răng khiến tim hồi hộp và chưa thể gặp nha sĩ ngay được, chúng ta cố gắng buông xả tri giác về sự hồi hộp như là việc tiêu cực. Bằng cách không chú tâm nhiều quá hay lo nghĩ về nó, chúng ta tiếp nhận cơn đau ít nghiêm trọng hơn.
Tri giác thanh tịnh về đau khổ và đau đớn có nghĩa rằng chúng ta thực sự chào đón đau đớn như một cơ hội tích cực và cảm hứng để thực hành buông xả bản ngã. Ở một mức độ thiện xảo rất cao, có thể không những hiểu được đau khổ như một việc tích cực mà còn trực tiếp cảm nhận tất cả mọi sự việc đều là hỷ lạc – bao gồm phạm vi những kinh nghiệm từ những vui thích hàng ngày cho đến cái mà đa số người ta xếp loại là tiêu cực như cơn đau của thể xác.
Một người đã thành tựu sự hoàn thiện của mỗi một kinh nghiệm như là phúc lạc, ngay cả nếu họ có vẻ yếu đuối về thể xác, bị thương tổn, hay hư nát, vẫn có tâm thức an bình. Ngài Tsele Natshog Rangtrol nói về vị Đại Lama Zhang Rinpoche, một Đại Đạo Sư của phái Kagyu :
Vì Ngài Zhang Rinpoche đã hoàn thiện sự chứng ngộ và kinh nghiệm về “con đường của phương tiện thiện xảo”, tất cả mọi kinh nghiệm, như chân đau do gai đâm và đầu bị thương vì đụng phải đá, đều phát sinh trong Ngài sự hợp nhất tự nhiên sanh khởi của lạc và tánh không (sự rỗng rang).
Với phần lớn chúng ta, việc thực hành tri giác thanh tịnh phải có thời gian và nhẫn nại. Nhưng ngay cả nếu chúng ta không thành tựu được sự thực hành ở mức độ cao nhất, một thái độ tích cực sẽ cải thiện cuộc sống chúng ta và cho chúng ta đối phó nhẹ nhàng và hiệu quả hơn với mọi loại khó khăn.
Tuy nhiên, cần phải mở rộng tâm chúng ta với những lợi ích của việc thực hành này trước khi chúng ta thật sự làm chín muồi chúng. Nhiều người trong chúng ta không thừa nhận tính thực tế của nó để nhìn mọi việc trong cuộc sống mình là tích cực. Chúng ta nói : “Nó không đáng tin, đời sống không phải như vậy” hay “Tôi không đủ mạnh hay không đủ tốt để cảm nhận theo cách này” hoặc “Một số hoàn cảnh thật quá khủng khiếp.”
Có vài điểm để ghi nhớ trong tâm trí. Thứ nhất, nhớ rằng vấn đề lớn là sự khăng khăng áp đặt những ý niệm của mình trên những kinh nghiệm mà trong bản tánh thật sự là rỗng rang. Ngày và đêm không xấu cũng không tốt, nhưng nếu chúng ta quyết định chỉ thích ban ngày và ghét ban đêm, bấy giờ ban đêm trở thành đáng ghét.
Thứ hai, chúng ta không nên tự đồng hóa mình với những phiền não và những kinh nghiệm xấu của chúng ta trong một cách thức bám chấp. Chúng ta vốn thực sự an bình và toàn thiện từ bên trong, cho dù có những đám mây che lấp thật tánh mình. Chúng ta phải cảm thấy tốt về mình và người khác, và hãy hạnh phúc với chính mình như mình đang là.
Cuối cùng, chúng ta phải biết rằng, thực sự có thể cải thiện cuộc sống và quan điểm của chúng ta, để tìm ra hạnh phúc và an bình, đi từ tiêu cực đến tích cực. Chúng ta có nhiều cách để làm điều này – mặt trí huệ, mặt tình cảm và mặt tâm linh. Mỗi một việc chúng ta kinh nghiệm đều có thể giúp chúng ta trên con đường chữa lành.
Trong Phật giáo, Bồ tát là một người giác ngộ, sống và giúp đỡ những người khác trong thế giới này với tất cả nỗi vui buồn của nó. Ngài Đại Bồ tát Văn Thù (Manjushri) có lần chỉ dạy một đệ tử khác, trước sự hiện diện của đức Phật, rằng bất kỳ hoàn cảnh nào cũng có thể khơi nguồn năng lực chữa lành trong tâm mình. Đây là lời của Ngài Văn Thù nói trong Kinh Avatamsaka (Kinh Hoa Nghiêm) :
Khi một Bồ tát thấy chúng sanh có nhiều tình thương, Ngài nên nghĩ : “Mong cho tất cả chúng sanh có nhiều tình thương và sùng mộ pháp.” Khi một Bồ tát thấy chúng sanh có nhiều sự không thích, Ngài phải nghĩ : “Mong sao tất cả chúng sanh có cảm giác không thích đối với mọi hiện tượng quy định bởi nhân duyên để họ sẽ nỗ lực cho giải thoát.” Khi một Bồ tát thấy chúng sanh hạnh phúc, Ngài phải nghĩ : “Cầu cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc tột cùng bằng việc đạt được sự giàu có của đại hoan hỷ của Phật tánh.” Khi một Bồ tát thấy chúng sanh đau khổ, Ngài phải nghĩ : “Mong rằng sự đau khổ của tất cả chúng sanh được bình lặng bằng sự gieo trồng gốc trí huệ trong họ.”
KIÊN ĐỊNH VÀ TINH TẤN
Trong lúc đối mặt với khó khăn, chúng ta vội vã chạy tìm những giải pháp. Nhưng lúc những khó khăn đó dịu đi, chúng ta lơ là kỷ luật cần thiết để làm mạnh mẽ và bảo tồn những năng lượng chữa lành của ta. Khi những khó khăn lại nổi lên, chúng ta trách móc sự thực hành : “Tôi đã tu tập nhiều năm, nhưng vẫn còn những khó khăn như vậy.” Lỗi lầm không nằm ở sự thực hành, mà là ở con người đã rời xa những phương pháp chữa bệnh và những ích lợi của chúng.
Một khi bạn huấn luyện một chú chó con không được nhảy lên bàn, bạn phải kiên định không cho nó lên bàn. Nếu không nó sẽ xao lãng và thói quen kỷ luật bị quên đi. Vậy chúng ta phải duy trì mọi thói quen tốt nào mà mình đạt được trong bất cứ sự tu tập nào, giống như hàng tháng chúng ta trả bảo hiểm hạng nhất để bảo đảm an toàn cho bệnh tật và tuổi già.
Việc chữa bệnh sẽ đến chỉ do chính chúng ta nỗ lực và kiên định hướng năng lực đời mình vào thực hành. Dù nếu chúng ta thực hành ở nơi cô tịch nhiều năm, nếu chúng ta phá vỡ sự liên tục tu tập trong vài tháng, chúng ta có thể thụt lùi và thấy mình như lúc mới bắt đầu.
Một khi chúng ta thực sự đạt được một sự đột phá, nếu chúng ta tiếp tục kiên trì thực hành thậm chí vài phút trong một ngày – sự kiên cố của tâm sẽ không mất mà sẽ tiếp tục được mạnh hơn.
Ngay cả nếu chúng ta không là học trò sáng ý hay là thiền giả thông tuệ, nếu kiên trì thực hành, chúng ta có thể tiến bộ nhanh hơn những người tự xưng là học giả và những người thuyết pháp. Trích dẫn lời Ngài Jigme Lingpa, người sáng lập truyền thống Longchen Nyingthig của Phật giáo Tây Tạng, Ngài Paltrušl Rinpoche viết :
Với một người không chuyên cần,
Thì thông minh, năng lực, tài sản và cả sức mạnh không giúp gì nó được.
Nó giống như thuyền trưởng một con thuyền không có buồm.
Một tục ngữ của Tây Tạng nói :
Những học giả kết thúc với hai bàn tay trắng trong nách mình.
Trong lúc người tận tụy đập tan cả những thách thức lớn như núi Tu Di thành bụi.
Nếu chúng ta chuyên cần, thậm chí là một người có tâm đơn giản, chúng ta có thể đạt được mục đích của mình. Cũng giống như một câu chuyện về Ngài Lamchungpa trở thành một trong những nhà hiền triết danh tiếng của đạo Phật được biết như trong mười sáu vị A La Hán. Đơn giản chỉ rửa sạch những đôi giày của những vị sư khác, Ngài đã có thể hiểu được lời dạy đức Phật. Đức Dalai Lama Thứ Nhất kể lại câu chuyện này :
Tâm trí Ngài Lamchungpa rất chậm lụt, nhiều đệ tử của đức Phật cố gắng dạy Ngài nhưng rồi phải bỏ cuộc. Sau đó đức Phật hướng dẫn Ngài rửa những đôi giày của các tăng chúng và lập lại hai câu, “Bụi bặm đã được rửa sạch, nhơ bẩn đã được rửa sạch”, Ngài cố nhớ hai câu ấy với sự khó khăn vô cùng. Sau khi làm công việc ấy một thời gian lâu dài, rồi một ngày nọ, một tư tưởng xuất hiện trong tâm trí Ngài : “Ồ đức Phật nói ‘lau sạch bụi’ và ‘rửa sạch dơ bẩn’ là cái gì ? Có phải bụi và dơ bẩn bên trong (tâm) hay của đồ vật bên ngoài (giày) ?” Ngay lúc đó ba câu thơ kệ đến trong tâm Ngài :
Đây không phải là bụi của đất, mà là của tham dục.
Bụi là tên của tham dục, không phải tên của bụi đất.
Ai học được cách lau sạch bụi
Đạt được tỉnh giác trong giáo lý của Như Lai.
Đây không phải là bụi của đất, mà là của sân hận.
Bụi là tên của sân hận, không phải tên của bụi đất.
Ai học được cách lau sạch bụi
Đạt được tỉnh giác trong giáo lý của Như Lai.
Đây không phải là bụi của đất, mà là của vô minh (si)
Bụi là tên của vô minh, và không phải là tên của bụi đất.
Ai học được cách lau sạch bụi
Đạt đến tỉnh giác trong giáo lý của Như Lai.
Bấy giờ Ngài chuyên cần thiền định về ý nghĩa của những vần kệ trên và chẳng bao lâu đạt được quả vị A La Hán, một trạng thái loại trừ toàn triệt những đau khổ tình cảm và tâm trí.
SỰ QUÂN BÌNH
Sự cân bằng cần thiết cho cả thiền định và đời sống hàng ngày. Quá ép buộc và thúc bách chỉ tạo ra căng thẳng, cứng rắn, hoang tưởng và đau khổ. Quá buông lung hay lười biếng thành ra thiếu tập trung, thiếu sức mạnh, ảo giác, mơ tưởng hão huyền. Để biết cách thiền định như thế nào, Ngài Patrušl Rinpoche khuyên chúng ta hãy lưu ý đến câu chuyện trong kinh như sau :
A Nan, một đệ tử chính của đức Phật, dạy Shravana làm sao để thiền định. Tuy nhiên, Shravana không thể thiền định được tốt vì đôi khi tâm trí quá kềm chặt và lúc khác lại buông lỏng. Khi trường hợp này được trình lên đức Phật, Ngài hỏi Shravana : “Này ông, khi còn ở nhà, ông đánh đàn rất hay phải không ?”
Shravana trả lời : “Vâng, con đánh hay.”
Đức Phật hỏi : “Âm thanh hay của đàn do lên dây chặt hay lỏng ?”
Shravana trả lời : “Bạch Phật, không phải cả hai thứ đó, âm thanh hay là do sự cân bằng của dây đàn.”
Bấy giờ, đức Phật bảo : “Vậy tâm của ông cũng cần phải như vậy.”
Sau này, bằng sự thiền định trong một cách thức cân bằng, Shravana đã đạt được thành quả của việc tu tập.
Trong thiền định, chúng ta hoàn toàn chú tâm và đem hết năng lực để thiền định, và trong cách này là gắng sức. Nhưng chúng ta không cảm thấy căng thẳng và trong cách này thiền định là sự không cố gắng. Giống như dây đàn, chúng ta vừa chặt vừa lỏng. Nói khác đi, tỉnh táo mà không căng thẳng. Nếu lười biếng, tâm ta không vững chắc và tĩnh lặng. Nếu cưỡng ép, chúng ta đốt hết năng lực và kết thúc trong bám chấp. Trích dẫn Ngài Machig Labdron, một nữ đạo sư nổi tiếng của Tây Tạng, Ngài Patrušl Rinpoche viết :
Điểm thiết yếu của quan điểm thiền định
Nằm trong thắt chặt và buông lỏng.
(Đầu tiên làm chặt được ở mức chặt
Sau đó nới lỏng ra ở mức lỏng
Như vậy tinh hoa của sự thấy ở đó.)
Sự linh hoạt là chìa khóa duy trì sự thăng bằng của tâm chúng ta trong những tình huống hàng ngày. Ngài Atisha, một trong những Đại Sư Phật giáo Ấn Độ ở thế kỷ thứ mười viết :
Bất cứ khi nào tâm bạn quá cao,
Cần thiết đánh tan kiêu mạn đó
Bằng cách nhớ lại những lời dạy của Thầy.
Bất cứ lúc nào tâm bạn quá thấp,
Cần phải có nguồn cảm hứng.
Bất cứ lúc nào đối mặt với đối tượng thèm muốn hay sân hận,
Hãy thấy chúng như những ảo giác hay những xuất hiện huyễn hóa.
Bất cứ lúc nào nghe điều không hấp dẫn,
Hãy xem chúng như những tiếng vang.
Bất cứ khi nào thân thể bị tổn thương,
Hãy nhận lấy như kết quả của nghiệp.
Giống như một chuỗi động tác của người trượt băng, vẫn thăng bằng trong lúc quay tròn và làm những kỳ công đáng ngạc nhiên trên băng, chúng ta cần nhận biết trung tâm của mình. Nếu chúng ta đi vào những cực đoan, chúng ta sẽ mất trung tâm bình an và trở nên mất thăng bằng. Chẳng hạn, trong mối liên hệ giữa chúng ta và người khác, chúng ta cần tình bạn và trợ giúp, và chúng ta cũng cần độc lập.
Người ta rơi vào cực đoan trong liên hệ giữa họ và người khác. Một số cha mẹ làm ngộp con cái mình trong những liên hệ quá phụ thuộc lẫn nhau. Những bậc cha mẹ khác lại sợ tình cảm thân mật và không cho con cái họ sự trợ giúp đầy đủ. Đúng là mỗi một người đều có thể tự đứng trên hai chân mình. Nhưng nhìn chung, sự thân mật nuôi dưỡng và cho phép con cái – và cha mẹ – lớn mạnh về mặt tình cảm. Cha mẹ phải nói chuyện và tham gia vào những trò chơi trong cuộc sống của con mình và bày tỏ tình thương nồng ấm với chúng. Họ cũng phải để cho con mình thành một người độc lập không phụ thuộc. Đây là sự thăng bằng mà chúng ta cần.
Nhiều đứa trẻ trưởng thành trách móc cha mẹ về những vấn đề thuộc tình cảm, hay nổi loạn chống lại bất cứ ai áp dụng quyền lực trên chúng. Chúng ta cần phải hiểu quá khứ của mình, nhưng trách móc không mang lại tự do. Nếu chúng ta vướng mắc vào bực tức và giận dữ, chúng ta có thể tạo ra những chất độc bên trong ta và bám vào chúng để bị tổn hại. Sự chữa lành là câu trả lời. Hãy nhìn quá khứ xem là cái gì, rồi tha thứ và quên đi. Đây là cách để tìm thấy an bình.
Tự tin thái quá, sợ phải dựa vào người khác làm cằn cỗi sự tăng trưởng tình cảm và tâm linh của chúng ta. Một số người bác bỏ ý tưởng dựa vào ai khác ngoại trừ chính họ. Nhưng bằng sự quá kiêu mạn hay quá sợ hãi, họ chối bỏ lợi ích của chính họ về sự đào luyện tâm linh. Họ nghi ngờ vị thầy hay giáo lý có thể giúp họ, và những nghi ngờ này khiến họ cách xa sự chữa lành. Hoàn toàn tự do không phụ thuộc vào những người khác là có thể được, nhưng với phần đông chúng ta sự cố gắng được hoàn toàn độc lập khi chúng ta học làm sao đối xử với những khó khăn là một sai lầm.
Chúng ta cần người khác giúp đỡ để đời sống bớt là một cuộc chiến đấu. Sự trợ giúp của gia đình, bạn bè, và cộng đồng là rất tốt. Đồng thời, trong sự cố gắng phát triển tâm linh và tình cảm, chúng ta phải đi trên chính bước chân và những khả năng của mình, không theo lịch trình của người nào khác. Trong mỗi hoàn cảnh, cuối cùng nếu chúng ta có thể tĩnh lặng và buông lỏng, thì chúng ta sẽ tìm thấy cân bằng.
CẢM NHẬN
Khi chúng ta nghe kể một câu chuyện gây hứng thú, không phải việc nghe nó, mà chính việc cảm nhận chúng mang lại cảm hứng. Cách hiệu quả của việc nối kết với bất cứ nguồn chữa bệnh nào không phải chỉ là nhìn hay tri giác một đối tượng để chữa bệnh, mà cảm nhận nó với toàn bộ con người của chúng ta.
Cách thực hành những bài tập chữa bệnh là tập trung vào lòng bạn – vào những cảm nhận tích cực của bạn. Không chỉ là nghĩ, mà cũng cảm nhận nó. Quả thực là giai đoạn cao nhất của chứng đắc tâm linh thì vượt khỏi những tri giác và cảm nhận hạn chế và nhị nguyên – vượt khỏi chủ thể và đối tượng, vượt khỏi tích cực (tốt) và tiêu cực (xấu), vượt khỏi một cái “tôi” quán tưởng một hình ảnh. Tuy nhiên, với những người như chúng ta đang vật lộn với đau khổ và kích động, thì mục tiêu tức thời, thích hợp là cố gắng chuyển những quan điểm tiêu cực thành tích cực, để chữa lành những cảm nhận đau khổ và cảm nhận sự niềm vui dịu dàng từ những chiều sâu của trái tim chúng ta.
THẤY HAY CẢM NHẬN VỚI TOÀN THỂ THÂN VÀ TÂM CHÚNG TA
Khi chúng ta tu tập, đặc biệt trong lúc đầu, tự nhiên ta sẽ tập trung năng lực bằng cách nhìn hình tượng quán tưởng với mắt của chúng ta, hay nghĩ về một đối tượng với đầu óc hay cảm nhận điều gì đó bằng tấm lòng của chúng ta.
Đối với một số thực hành, phương pháp này là có ích. Tuy nhiên, đôi khi nó gây ra khó khăn nếu thực hành với quá nhiều rán sức hay căng thẳng theo cách khu trú năng lực chỉ ở trong một phần của cơ thể.
Ví dụ, có thể chúng ta tập trung quá nhiều năng lực ở cặp mắt khi quán tưởng, hay tập trung cảm nhận quá mạnh ở vùng tim. Ở Tây Tạng, điều này được diễn giải trong một thuật ngữ “Khí” hay năng lực, chảy đến bất cứ đâu trong thân thể khi tâm tập trung vào. Quá nhiều năng lực trong một vùng có thể gây ra căng thẳng và ngay cả bệnh tật.
Giải pháp đơn giản là thả lỏng và hoàn toàn chú tâm vào sự tập trung bằng cả con người của chúng ta, mà không gắng sức. Theo cách này, chúng ta thấy và cảm nhận bằng cả con người, và năng lực được phóng lớn hơn là khu trú cục bộ. Trong đời sống hàng ngày, nếu bạn nhìn chăm chú vào màn hình vi tính, bạn có thể nhức đầu, trừ khi bạn nhìn bằng một cách buông lỏng hơn. Tương tự, ca sĩ có thể làm căng thẳng dây thanh âm trừ khi họ biết cách đem âm thanh lên từ hơi thở vùng dưới bụng. Nếu thiền định là một sự gắng sức, đó là dấu hiệu cần được nới lỏng và để tâm và thân thiền định theo cách buông lỏng trong một lúc.
NĂNG LỰC CỦA SỰ BÍ MẬT
Thường sự rèn luyện tâm linh trở nên hiệu quả hơn khi được trao cho như một giáo huấn bí mật được giữ như một kho tàng bí mật, và thực hành trong bí mật không thố lộ cho bất cứ ai ngoài vị thầy của mình. Mục tiêu tối hậu của giáo lý là mở rộng cho chúng ta, không giới hạn hay tự tách biệt mình trong ẩn dật. Nhưng đặc biệt, trong lúc bắt đầu, chúng ta cần phải tập gom tụ năng lực và sự tập trung của mình. Sự bí mật giúp ta làm điều đó.
Nếu chúng ta sử dụng cái chúng ta đã học để nói huyên thuyên ở bàn ăn hay như là một nhà buôn hàng hóa, một công cụ cho những mục đích tầm thường, chúng ta có nguy cơ phân tán năng lực và nguồn cảm hứng của mình. Khi ta giữ việc thực hành được bí mật, năng lực được tập trung phát triển hiệu quả hơn, giống như một bộ máy khai thác năng lực để phóng một hỏa tiễn ra khỏi sức hút của trái đất bởi vì nhiên liệu được đốt cháy này được giữ dưới áp suất lớn lao hơn là để thoát ra một cách ngẫu nhiên.
BIẾT ĐƯỢC NHỮNG SỰ MẠNH MẼ
VÀ YẾU ĐUỐI CỦA CHÚNG TA
Tất cả chúng ta đều khác nhau, với những khí chất cá nhân và phẩm tính tâm thức riêng biệt, nhưng tất cả chúng ta đều có thể tìm thấy an bình. Ngài Shantideva nói :
Khi nhìn thấy máu mình, một số người trở nên can đảm và mạnh mẽ hơn.
Một số người khi thấy máu người khác,
Lại lả đi hay ngất xỉu.
Những phản ứng này là do sức mạnh
Hay sự yếu đuối của tâm.
Vậy bằng cách chẳng để ý đến những khó khăn
Hãy để tâm mình trở nên bất bại với những khổ đau.
Tất cả chúng ta đều toàn thiện trong bản tánh chân thật của mình, và đó là sức mạnh vĩ đại của chúng ta. Sau khi hiểu được điều này, chúng ta phải xây dựng sức mạnh và chữa lành mọi yếu đuối của mình.
Đôi khi, việc nhận ra những yếu đuối của mình rất khó khăn. Một số chúng ta vô cảm và kiêu ngạo. Một số hay nổi giận và tiêu cực về tất cả mọi thứ. Một số say sưa với tiền bạc, quyền lực và nuông chiều mình thường trực trong sự tự mãn và những ý niệm hoang dã. Nếu có bất cứ những phiền não này đến với mình, chúng ta cần phải làm dịu đi bản ngã thô lỗ, ngoan cố và tự tìm thấy thăng bằng. Những thiền quán trên những nỗi buồn, mất mát và những khó khăn của thế giới này có thể mở rộng tâm chúng ta.
Không may, nếu chúng ta kiêu mạn và ngoan cố, thì chúng ta tự biến thành kẻ thù tệ hại nhất của chính mình, vì sẽ khó khăn để nhận ra những vấn đề của mình. Vậy nhận ra những lỗi lầm của mình là bước khởi đầu quan trọng.
Và rồi có một số trong chúng ta bị buồn chán, yếu đuối, hoang mang và ngay cả tự tử. Nếu chúng ta không tin tưởng vào bất cứ cái gì, tốt hơn hết là tham thiền về những tu tập gây cảm hứng như sùng mộ, thái độ tích cực, tri giác thanh tịnh, tâm bi và tâm từ. Chúng ta phải xua đi những lo nghĩ và nghi ngờ, phải tự tin vào chính mình và sức mạnh của những giáo lý.
Để biết mình, rất có ích lợi là nhận lời dạy bảo của một vị thầy hay người cố vấn khéo léo. Chúng ta không cần đi một mình, chúng ta có thể chấp nhận sự giúp đỡ khuyến khích của bạn bè và người khác. Đồng thời, sự chữa lành tối hậu nằm trong chúng ta. Trong cái thật sự là chúng ta, chúng ta có thể tìm thấy những câu trả lời chúng ta cần. Những lời dạy của những thời đại cung cấp cho ta những bảng chỉ đường. Chúng ta cần phải đem lòng nhiệt tình và sự sáng tạo vào cách thức mà chúng ta theo những dấu hiệu chỉ đường đó.
SHARE:
Ban biên tập website Thiện Tri Thức chúng tôi chân thành cám ơn các trang mạng, các tác giả cùng những cộng tác viên , các bạn đọc đã cho phép chúng tôi trích đăng và gửi bài tới trang nhà chúng tôi. Những ý kiến đóng góp và bài viết xin gửi về email [email protected].
Mong mọi sự tốt lành!
© Bản quyền 2021 THIỆN TRI THỨC | Thiết kế bởi TIGONSYS