SHARE:
A Nan, như vậy trong mỗi mỗi loài chúng sanh cũng đều có đầy đủ mười hai thứ điên đảo. Cũng như dụi mắt thì thấy hoa đốm loạn xạ phát sanh, chân tâm viên minh tịnh diệu mà điên đảo phát sanh thì đầy đủ loạn tưởng hư vọng như vậy.
Nay ông tu chứng tam ma địa của Phật thì đối với nguyên nhân cội gốc của các loạn tưởng phải lập ra ba món thứ lớp (tiệm thứ) mới trừ diệt được. Như trong đồ đựng sạch, trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và chất tro, chất thơm rửa sạch đồ đựng rồi sau mới chứa đuợc nước cam lồ.
Thế nào gọi là ba món thứ lớp? Một là tu tập trừ bỏ trợ nhân; hai là tu chân, nạo sạch chính tính, ba là tăng tiến, trái lại với hiện nghiệp.
…………………………………
Chân tâm vốn viên minh tịnh diệu, điên đảo có phát sanh thì cũng chỉ tạm thời, vì vô tự tánh, như hoa đốm có loạn xạ phát sanh thì chẳng hề hấn gì hư không.
Nhưng một khi đã điên đảo loạn tưởng, chạy theo chúng đã lâu rồi, như uống rượu say mà chờ cho tỉnh thì phải có một quá trình thứ lớp. Như đồ đựng lỡ chứa thuốc độc, để làm sạch mà đựng cam lồ thì phải dùng nước sôi, tro và chất thơm rửa sạch. Nước sôi, tro và chât thơm là ba món thứ lớp để rửa sạch chất dơ là điên đảo loạn tưởng vậy.
……………………………….
A Nan, mười hai loài chúng sanh trong thế giới như thế, không thể tự chu toàn, phải nương bốn cách ăn mới sống được, đó là đoàn thực, xúc thực, tư thực và thức thực. Thế nên Phật nói, tất cả chúng sanh đều nương vào sự ăn mà sống còn.
A Nan, tất cả chúng sanh ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết. Vậy nên chúng sanh cầu tam ma địa nên dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay này nếu ăn chín thì phát lòng dâm, nếu ăn sống thì thêm lòng giận. Những người ăn rau cay ấy trên thế gian dầu giảng nói được mười hai bộ kinh thì tiên thiên mười phương ghét mùi hôi ấy đều lánh xa cả. Các loài quỷ đói… nhân lúc người ấy đang ăn bèn liếm môi mép người ấy. Thường ở chung với quỷ nên phước đức ngày càng tiêu mòn, lâu dài không được ích lợi. Người ăn rau cay ấy tu Tam ma địa, Bồ tát, tiên thiên, thiện thần mười phương không đến giữ gìn, ủng hộ. Đại lực quỷ vương thừa cơ hội ấy hiện làm thân Phật đến thuyết pháp cho, chê phá cấm giới, khen dâm, nộ, si. Khi chết tự làm quyến thuộc ma vương, hưởng phước ma hết thì đọa và địa ngục vô gián.
A Nan, người tu đạo Giác ngộ thường phải đoạn hẳn năm thứ rau cay.
Đó là thứ lớp (tiệm thứ) tu hành tăng tiến thứ nhất.
……………………………………..
Đoàn thực là ăn bằng miệng, vo tròn mà ăn. Xúc thực là ăn do tiếp xúc mà no chứ không phải bằng miệng, đây là cách ăn của người chết, quỷ thần. Tư thực là ăn bằng nghĩ tưởng, như chư thiên. Thức thực, ăn bằng cái thức.
Người thường có đủ cả bốn cách ăn này_chẳng lẽ họ không có thức? _nhưng người ta chỉ biết ăn bằng miệng để sống. Ăn bằng miệng thì nên tránh năm thứ rau cay vì dâm và giận tăng thêm rồi có lúc phát ra. Thế là đi ngược với tam ma địa vì đi vào tánh định thì không có dâm và giận. Đã thế còn kêu gọi các ma tới ở chung, còn các Bồ tát, thiện thần… thì lánh xa.
Ba thứ lớp để tịnh hóa này đi từ thô đến tế, từ thân đến tâm và đến các tập khí trong tâm
………………………………..
A Nan, chúng sanh như vậy muốn vào tam ma địa trước hết cốt phải nghiêm trì giới luật thanh tịnh, đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A Nan, người tu hành ấy nếu chẳng đoạn dâm dục và sát sanh mà muốn ra khỏi ba cõi thì không thể có việc ấy. Phải quan sát dâm dục như rắn độc, như thấy giặc thù.
Trước hết, hãy giữ gìn Tứ khí, Bát khí của giới luật Thanh Văn, giữ thân chẳng động. Sau đó hành trì luật nghi thanh tịnh của hàng Bồ tát, giữ tâm không khởi. Cấm giới đã thành tựu thì trong thế gian vĩnh viễn không còn sanh ra nhau, giết chết nhau. Không làm việc trộm cướp thì thế gian không còn mắc nợ nhau, để khỏi phải trả nợ trước.
Người thanh tịnh ấy tu tam ma địa thì ngay nơi thân xác thịt cha mẹ sanh, không cần thiên nhãn mà tự nhiên xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật nghe pháp, vâng lãnh thánh chỉ của Phật, được đại thần thông, đi khắp mười phương thế giới, túc mạng thanh tịnh, không có những khó khăn hiểm trở.
Đó gọi là thứ lớp tu hành tăng tiến thứ hai.
…………………………………….
‘‘Nạo sạch chính tính’’ là tịnh hóa hai nghiệp căn bản của con người là dâm dục và sát sanh. Không dâm dục và sát sanh thì không còn nghiệp căn bản để làm chúng sanh người.
Ban đầu giữ giới Thanh Văn, chủ yếu là giữ giới thân. Sau giữ giới Bồ tát, chủ yếu là giữ giới tâm. Thân tâm không sản sanh nghiệp thì được thanh tịnh. Từ đây bước vào cõi giới thanh tịnh của Phật: xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật nghe pháp, đi khắp mười phương…
Chúng ta có thể thắc mắc, tại sao ngài A Nan ngộ rồi mà Đức Phật lại giảng những điều tưởng như các pháp bắt đầu như trì chú và giữ giới? Thật ra có ngộ tâm rồi mới trì chú đúng, giữ giới đúng, vì được làm trên nền tảng chân tâm đã rõ ràng. Đúng ở đây là nghĩa chữ ‘chánh’, chữ ‘chân’ trong những câu kinh ở trước, ‘chánh tu hành lộ’, ‘chân tu tam ma địa’, ‘chân viên thông’…. Trên nền tảng chân tâm này mới diệt trừ tập khí bằng ba món tiệm thứ.
Với người đã ngộ, đã nhận biết chân tâm, thì trì chú, giữ gìn tâm không dấy khởi đến không còn tập khí là sự tiệm tu, là bảo nhậm, là nhập, là niệm niệm tương ưng với chân tâm.
…………………………………..
A Nan, người trì giới thanh tịnh như vậy, tâm không tham dâm, không hay rong ruổi theo các trần trôi nổi ở ngoài. Nhân không rong ruổi nên tự xoay về tánh bản nguyên.
Trần đã chẳng duyên theo, căn không chỗ dính hợp, ngược dòng toàn nhất, sáu cái dụng chẳng vận hành. Cõi nước mười phương sáng trưng thanh tịnh, như ngọc lưu ly có treo mặt trăng sáng ở trong.
Thân tâm rỗng khoái, bình đẳng với tánh diệu viên, được đại an ổn, mật viên tịnh diệu của tất cả Như Lai đều hiện trong đó. Người ấy liền được Vô sanh pháp nhẫn. Từ như vậy tiệm tu, tùy chỗ phát hạnh mà an lập thánh vị.
Đó gọi là thứ lớp tu hành tăng tiến thứ ba.
…………………………………
Giữ được giới ‘‘tu chân, giữ thân chẳng động, giữ tâm không khởi’’ khiến cho thân tâm thanh tịnh thì tâm không tham dâm, không chạy theo các trần lăng xăng bên ngoài. Không rong ruổi theo thì tự nhiên xoay trở về tánh bổn nguyên, hợp nhất hoàn toàn với tánh bổn nguyên, nên gọi là ngược dòng toàn nhất.
Căn không chỗ dính, căn vừa ngược dòng thì ngay đó là cái Toàn Nhất. Bởi vì các căn có xuôi dòng hay ngược dòng thì bao giờ cũng nằm trên và trong cái Toàn Nhất. Sáu căn, sáu dụng không hoạt động theo vô minh nữa thì ngay đó là tánh viên thông rỗng rang toàn khắp. Bấy giờ các căn rỗng rang thông suốt với cõi nước mười phương sáng trưng thanh tịnh. Tâm vốn thanh tịnh nên khi gặp tâm thì thấy tâm như ngọc lưu ly bên trong treo mặt trăng sáng. Nói theo Kinh Hoa Nghiêm, ‘‘tâm, Phật, chúng sanh; cả ba không sai khác’’, toàn cả pháp giới là cái Toàn Nhất tròn sáng này. Thật được như vậy là Vô sanh pháp nhẫn.
Như vậy ‘‘trái lại với hiện nghiệp’’ là trái với sanh tử hiện có trước mắt, để nó tự chuyển thành Niết bàn trước mắt, ‘‘ngược dòng toàn nhất’’.
Con đường Phật giáo là con đường tịnh hóa hay diệt trừ tập khí. Ba món thứ lớp này còn phải vận dụng những Phật pháp khác để tăng thêm hiệu lực như Chỉ, Quán, Thiền, Hạnh….
Tập khí là cái đã nhiễm ô sâu và còn đọng lại nơi thân tâm. Chẳng hạn như một cái cối gỗ đã dùng để giã tỏi lâu ngày, mùi hôi đã được xông ướp tích tập (huân tập) thấm sâu vào gỗ. Muốn trừ bỏ tập khí là mùi hôi ấy thì trước phải ‘‘trừ bỏ trợ nhân’’, không chứa tỏi nữa, và dùng nước nóng rửa sạch. Thứ hai là ‘‘nạo sạch chính tính’’, dùng tro để hòa trộn với lớp gỗ mỏng đã tẩm mùi hôi không thể ra được và nạo sạch lớp gỗ ấy. Thứ ba, ‘‘trái với hiện nghiệp’’ là dùng chất thơm trái với mùi hôi mà rửa, xông ướp để có mùi thơm mới.
Ba thứ lớp tu hành tăng tiến này đi từ thô đến tế, cho đến khi tịnh hóa được hoàn toàn, đắc Vô sanh pháp nhẫn.
…………………………………..
A Nan, người thiện nam ấy ái dục khô khan, căn cảnh chẳng dính hợp, thể chất còn sót hiện tại không tiếp tục sanh nữa. Giữ cái tâm rỗng sáng, thuần là trí huệ, tánh huệ tròn sáng khắp mười phương cõi. Mới có cái huệ khô khan, gọi là Càn huệ địa, tập khí năm dục mới khô, chưa tiếp thông được với dòng nước pháp của Như Lai.
…………………………..
Do dụng công khiến căn cảnh chẳng dính hợp, khiến sự rong ruổi không còn tiếp tục sanh, bấy giờ tâm trở nên rỗng sáng, thấy sáng khắp mười phương cõi.
Do vậy mà thấy từ xa Pháp thân Kim cương. Đây là sự tiếp xúc ban đầu từ xa. Chữ ‘‘xa’’ này lấy trong Kinh, chẳng hạn, ‘‘Giác ngộ, Niết bàn còn cách xa xôi’’ (Bồ đề, Niết bàn thượng tại diêu viễn-quyển Bốn). Hoặc ‘‘Nay ông muốn cái thấy, nghe, hay, biết xa hợp (viễn khế) với bốn đức Thường Lạc Ngã Tịnh của Như Lai’’-quyển Bốn.
Từ Càn huệ địa, trải qua bốn mươi địa vị Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng và trong bốn Gia hạnh vị thì chỉ tiếp xúc, thấy biết gián tiếp Như Lai tạng diệu chân như tánh. Gián tiếp vì phải qua dụng công, qua thức, qua phiền não chướng và sở tri chướng đang còn, cho nên ngài Thiên Thai Trí Khải gọi là Tương tự giác, giác chỉ tương tự.
Phải vào Thập địa, từ Sơ địa trở lên mới trực tiếp thấy biết Pháp thân Như Lai tạng diệu chân như tánh. Ngài Thiên Thai gọi Thập địa là Tùy phần giác, vì giác được từng phần Pháp thân. Vì chung một phần Pháp thân với chư Phật mới được gọi là Phật tử.
Tuy Sơ tâm Càn huệ địa này là mặt trăng thứ hai, nhưng mặt trăng thứ hai này cũng từ mặt trăng thật mà có, không nằm ngoài mặt trăng thật. Quá trình điều chỉnh cho mặt trăng thứ hai trở về với mặt trăng thật nhanh hay chậm là tùy thiện căn của từng người.
……………………………………
1.Tức lấy cái tâm này, ngay chính giữa dòng nhập vào, theo cái diệu viên chân thật, càng phát thêm chân diệu. Diệu tín thường trụ, tất cả vọng tưởng hết sạch chẳng còn. Trung đạo thuần chân, gọi là Tín tâm trụ.
……………………………………
‘‘Tức lấy cái tâm này’’, nghĩa là từ sơ tâm cho đến tâm tối hậu cũng chỉ là Một Tâm.
Lấy cái tâm mới khô căn cảnh này, ngay chính giữa dòng nhập vào, theo tánh diệu viên, càng thêm sáng rõ. Đây là niềm tin thường còn, vì đã thấy từ xa chân tánh diệu viên.
Khi đã có niềm tin bèn là có ý an trụ vào đó, cho nên mới gọi là Tín tâm trụ.
………………………………………
2. Chân tín sáng tỏ, tất cả đều viên thông, ba thứ ấm, xứ, giới không thể làm ngại. Như thế cho đến trong vô số kiếp quá khứ vị lai, tất cả tập khí bỏ thân, thọ thân đều hiện ở trước mắt, người thiện nam này đều có thể nhớ nghĩ được, không quên mất, gọi là Niệm tâm trụ
…………………………………….
Niềm tin chân chánh được sáng tỏ, không còn bị ấm, xứ, giới, nghĩa là cảnh, làm ngại. Do đó mà có thể nhớ được các kiếp quá khứ nghĩ được các kiếp vị lai. Sở dĩ có được sự nhớ (niệm) này là do sự sáng tỏ của tâm.
…………………………………..
3. Diệu viên thuần chân, chân tinh phát hóa khiến các tập khí vô thủy thông thành một tinh minh. Chỉ dùng tinh minh ấy tiến đến chỗ chân tịnh, gọi là Tinh tiến tâm.
………………………………….
Các tập khí thông thành một tinh minh sáng tỏ, nhắm theo sự sáng tỏ của tinh minh mà tiến tới để minh càng ngày càng tịnh khiến tập khí tiêu dần.
……………………………………
4. Tâm tinh hiện tiền, thuần dùng trí huệ, gọi là Huệ tâm trụ.
………………………………….
Tâm tinh có thể dịch là sự thuần túy, tinh chất của tâm, chưa phải là tâm tánh, tức bản tánh của tâm.
Nói là hiện tiền, nhưng thấy mà chưa rõ, chưa thật thấy, mờ ảo khi có khi không. Nếu so với hiện tiền địa thứ 6, thì ở địa ấy mới thật thấy, luôn luôn hiện tiền.
…………………………………
5. Nắm giữ trí được sáng suốt, lặng trong cùng khắp, thường lặng đứng nhiệm mầu, gọi là Định tâm trụ.
…………………………………
Còn phải giữ gìn cho sáng, cho thường thì vẫn còn ở nơi thức, chưa thật vào trí. Kinh Lăng Già nói: ‘‘Cái sanh diệt là thức, cái chẳng sanh diệt là trí’’.
……………………………………
6. Ánh sáng của định phát sáng, dùng cái sáng ấy mà thâm nhập, chỉ có tiến chớ không lui, gọi là Bất thối tâm.
……………………………………..
Tin thì thấy sáng, nương theo cái sáng ấy mà thâm nhập, để có lúc thấu vào tánh giác.
……………………………………
7. Tâm tiến tới một cách an nhiên, giữ gìn không cho mất, giao tiếp với khí phần của mười phương Như Lai, gọi là Hộ pháp tâm.
…………………………………….
Giữ gìn không cho mất trong khi vẫn tiến tới, đó là giữ gìn pháp, hộ pháp. Giao tiếp với khí phần, tức là Sắc thân gồm Báo thân và Hóa thân, mà sắc thân thì sanh diệt, chứ chưa phải là Pháp thân, tức Phật tánh.
……………………………………..
8. Giữ gìn cái giác sáng tỏ, có thể dùng diệu lực xoay từ quang của Phật lại nơi mình, hướng về Phật mà an trụ, như hai tấm gương ánh sáng đối nhau, trong ấy các bóng diệu mầu trùng trùng tương nhập, gọi là Hồi hướng tâm.
……………………………………..
Tâm đã sáng tỏ thì có thể tiếp nhận ánh sáng từ bi của Phật, như gương này đã sáng thì có thể phản chiếu áng sáng gương kia. Nếu gương sáng hoàn toàn thì phản chiếu hoàn toàn gương tâm hay Giác ngộ của Phật.
Đây mới ở giai đoạn Thập tín, nhưng Thập tín cũng ở trên Pháp thân Phật hay Tâm Phật. Thập tín vẫn luôn luôn thông với Pháp thân Phật, thế nên từ một cấp trong Thập tín có thể tương ưng được ngay và hoàn toàn với Giác ngộ của Phật.
……………………………………..
9. Tâm quang thầm xoay trở lại, được chỗ thường lắng đọng vô thượng diệu tịnh của Phật, an trụ vô vi, được không bỏ mất, gọi là Giới tâm trụ.
……………………………………….
Ánh sáng của tâm thay vì phóng theo các trần tướng bên ngoài thì xoay lại gần với chỗ tịch tịnh của Phật. Giữ được ánh sáng an trụ như vậy không bỏ mất, gọi là Giới.
……………………………………….
10. Tự tại an trụ nơi giới ấy, có thể dạo khắp mười phương, đi đến đâu tùy theo nguyện, gọi là Nguyện tâm trụ.
………………………………………
An trụ được nơi giới là ánh sáng của tâm, thì có thể đi khắp mười phương tùy theo ý nguyện. Sự tự tại theo ý nguyện này là do sức mạnh của ánh sáng tâm.
Theo Kinh Hoa Nghiêm dạy về Viên giáo, thì ‘‘lúc sơ phát tâm liền thành Chánh giác. Biết tất cả pháp tức là tự tánh của tâm, thành tựu huệ thân chẳng do người khác’’ (Phẩm Phạm Hạnh, thứ 16), cho thấy rằng ở cấp độ nào cũng có thể trực tiếp thành Phật. Vấn đề là đầy đủ thiện căn Phật pháp để thành tựu hay chưa.
……………………………..
1. A Nan, người thiện nam đó dùng phương tiện chân chánh phát mười cái tâm ấy, tâm tinh phát sáng, mười cái dụng ấy xen lẫn với nhau viên thành một tâm, gọi là Phát tâm trụ.
……………………………………
Còn dùng phương tiện, nghĩa là chưa y trên tánh mà tu, cái này sẽ là sự tu của hàng Thập địa, một khi đã trực biết thấy tánh tức thấy Pháp thân. Phát mười cái tâm ấy, cái tâm có phát thì chỉ là tâm tương tự, giác tương tự. Sự viên thành một tâm này do vậy chưa phải là Một Tâm Pháp thân của Phật và chúng sanh, của phàm thánh trời người. Ở hàng Thập địa thì mười cái tâm ấy có sẵn trong Pháp thân, và Một Tâm Pháp thân ấy có sẵn, không phải tập hợp lại rồi viên thành.
Xác định cho rõ như vậy để thấy cần phải tăng tiến hơn mà bước vào Thập địa Pháp thân, chứ không phải để bỏ qua không tu Tam Hiền, là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng.
……………………………………..
2.Trong tâm phát sáng như ngọc lưu ly thanh tịnh, ở trong hiện ra sắc vàng ròng. Dùng cái diệu tâm ở trước sửa sang thành địa, gọi là Trị địa trụ
………………………………….
Trụ nơi tâm phát sáng thanh tịnh mà sửa sang, đối trị để tâm thành tâm địa an trụ vững vàng.
………………………………………
3.Tâm địa thông biết, đều được tỏ rõ, dạo đi mười phương được không ngăn ngại, gọi là Tu hành trụ.
……………………………………….
Khi tâm địa đã sáng bèn có thể dạo đi mười phương, mắt đã sáng nên chốn chốn đều thấy được, đều học được, nên gọi là tu hành.
……………………………………….
4.Hạnh đồng với Phật, nhận khí phần của Phật, như thân trung ấm tự tìm cha mẹ, âm thầm thông vào dòng giống Như Lai, gọi là Sanh quý trụ.
……………………………………..
Tu hành là tu hạnh Phật nên hạnh ấy đồng với Phật mà nhận khí phần của Phật. Thân trung ấm là thần thức, thầm thông vào dòng giống Phật là thông qua khí phần, chưa phải thông qua pháp thân. Sanh vào Pháp thân thì được gọi là ‘‘sanh vào nhà Như Lai’’, hay nói theo ngài Tu Bồ Đề trong Kinh Đại Bát Nhã: ‘‘Con từ miệng Phật sanh, từ Pháp hóa sanh’’.
…………………………………….
5.Đã vào đạo thai, chính mình được nối dõi dòng Giác, như thai đã thành, tướng người không thiếu khuyết, gọi là Phương tiện cụ túc trụ.
………………………………………
Như thai đã thành tướng người không thiếu khuyết, được nối dõi dòng giống giác ngộ, đầy đủ phương tiện để có thể ‘thành tựu’ Pháp thân.
……………………………………….
6.Dung mạo như Phật, tâm tướng cũng đồng, gọi là Chánh tâm trụ.
……………………………………..
Dung mạo như Phật, sự biểu lộ nơi thế gian là sự hiện hành của trí huệ và từ bi. Tâm tướng là trí huệ và từ bi. Chánh tâm là tâm chân chánh do tu mà có, chưa phải là tâm Như Lai tạng diệu chân như tánh vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên.
Ở Thập trụ thì mới ‘‘giống như’’ nhưng chưa phải ‘‘thật là’’.
…………………………………..
7.Thân tâm hợp thành, mỗi ngày càng tăng trưởng, gọi là Bất thối trụ.
………………………………….
Thân tâm hợp nhất, thân như thế nào thì tâm như vậy, tâm như thế nào thì thân như vậy. Thân tâm ấy giống như Phật, mỗi ngày càng tăng trưởng.
…………………………………
8.Linh tướng của mười thân cùng lúc đầy đủ, gọi là Đồng chân trụ.
…………………………………….
Mười thân Phật theo Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37, là :
1/ Thân vô biên ở khắp như hư không.
2/ Thân quang minh chiếu khắp mà không nhiễm trước.
3/ Thân làm lợi ích khắp.
4/ Thân bình đẳng ứng cơ.
5/ Thân công đức quang minh làm thiện căn chúng sanh được đầy đủ.
6/ Thân như mặt trăng hiện bóng khắp
7/ Thân một nhiều vô ngại.
8/ Thân không có động niệm mà thành tựu Phật sự.
9/ Pháp thân quang minh ai thấy thì đắc pháp nhãn tịnh.
10/ Thân vô ngại như hư không cho chúng sanh tùy ư mãn nguyện.
Mười thân này là cái dụng viên mãn của Ba thân Phật, Pháp thân, Báo thân và Hóa thân.
Ở đây nói là mười thân cùng lúc đầy đủ, nhưng cũng chỉ là đầy đủ ở trong thai. Vào Sơ địa mới thực sự được sanh ra như đứa trẻ, rồi lớn lên, trưởng thành, thành người lớn (Phật) thì mới làm những việc lớn lao được.
Cấp thứ tám của Thập Trụ là Đồng chân trụ, cấp thứ tám của Thập Địa còn được gọi là Đồng chân địa. Cấp thứ mười của Thập Trụ là Quán đảnh trụ, cấp thứ mười của Thập Địa là Pháp vân địa cũng trải qua quán đảnh. Như vậy chúng ta thấy mười bậc ở dưới cũng tương tự như mười bậc ở trên cùng, có khác nhau là một bên thì tương tự vì chưa được vào tánh Giác Pháp thân, và một bên thì thật sự vì đã có nền tảng là tánh Giác Pháp thân.
………………………………..
9.Hình thể đã thành, ra khỏi bào thai, chính mình là Phật tử, gọi là Pháp vương tử trụ.
………………………………….
Từ Phát tâm trụ cho đến Sanh quý trụ là nhập thánh thai, từ Phương tiện cụ túc trụ cho đến Đồng chân trụ là trưởng dưỡng thánh thai. Đến đây đã đầy đủ mới ra khỏi bào thai, được sanh ra làm Phật tử.
Địa thứ tám của Thập địa còn có tên là Sanh địa, cho thấy sự giống nhau giữa Thập trụ và Thập địa. Nhưng sự khác biệt là về chất: ở Thập Địa thì gọi là Pháp vương tử, còn ở Thập trụ thì gọi là Pháp vương trụ. Sự khác biệt ấy là một bên có nền tảng là Pháp thân, còn bên kia thì chưa có nền tảng ấy.
…………………………………….
10.Cốt cách đã thành người lớn, như khi quốc vương đem các việc nước giao phó cho thái tử lúc thái tử trưởng thành, bày ra lễ quán đảnh, gọi là Quán đảnh trụ.
…………………………………..
Quán đảnh để thái tử sẽ lên làm vua. Quán đảnh của Phật giáo để làm Phật tử (ở cấp Thập Trụ) và để chuẩn bị thành Phật, làm việc Phật (ở cấp Thập Địa).
Chúng ta thấy tổng quát bốn mươi cấp bậc là như vầy :
Thập Trụ là an trụ vào cái thấy biết sơ bộ ấy để hình thành và nuôi lớn: ‘‘Dung mạo giống như Phật, tâm tướng cũng đồng’’. Nhưng hàng Thập trụ chưa thấy rõ Phật tánh. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Bậc Thập trụ biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng thấy chẳng rõ ràng như trong đêm tối thấy vật chẳng rõ” (Phẩm Phạm hạnh). “Bồ tát Thập trụ còn thấy Phật tánh một phần ít, huống là người chẳng tu mà được thấy ư!” (Phẩm Sư tử hống Bồ tát).
Đây là một trình tự hợp lý nói lên sự trưởng thành của tâm thức hành giả. Nhưng trình tự ấy luôn luôn xảy ra trên nền tảng Như Lai tạng diệu chân như tánh, thành thử bất cứ cấp bậc nào cũng hoàn toàn thông suốt với Như Lai tạng diệu chân như tánh. Bốn mươi địa vị đều nằm trên đất Phật, Phật địa, còn sự chứng ngộ nhanh hay chậm thì tùy nơi hành giả.
…………………………………..
1.A Nan, người thiện nam đó đã thành Phật tử rồi, đầy đủ vô lượng diệu đức của Như Lai và tùy thuận mười phương, gọi là Hoan hỷ hạnh.
…………………………………..
Địa đầu tiên trong Thập Địa là Hoan hỷ địa, cấp bậc đầu tiên trong Thập Hạnh là Hoan hỷ hạnh.
Khi đã thành Phật tử, nghĩa là đã thấy biết và an trụ được nơi cái chân thật là Phật tánh, dù chưa trực tiếp, bèn hoan hỷ vì có đầy đủ diệu đức của Phật. Từ Phật tánh này lưu xuất các hạnh, mà hạnh đầu tiên là tùy thuận mười phương. Một trong những diệu đức của Phật tánh là tánh Không vô tự tánh, vì vô tự tánh nên có thể tùy thuận mười phương thế giới chúng sanh.
…………………………………….
2.Khéo hay lợi ích cho tất cả chúng sanh, gọi là Nhiêu ích hạnh.
……………………………………
Thành Phật tử là trí sáng, bi trùm, nên có thể làm lợi ích cho chúng sanh. Con đường Bồ tát cho đến thành Phật là khai mở, tỏa rộng Trí và Bi để làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh.
……………………………………
3.Tự giác, giác tha, được không chống trái, gọi là Vô sân hận hạnh.
…………………………………..
Tự giác thì không thấy có mình. Giác tha thì không thấy có người. Đây gọi là ‘‘ngược dòng toàn nhất’’. Không có mình không có người thì được không chống trái. Không chống trái thì không có sân hận. Ở trong tánh, nghĩa là trong Trí Bi, thì không có ngã và pháp, bèn không có chống trái. Hạnh giác tha mà không có sân hận khiến hành giả tự mình tiêu trừ chướng ngại ngã chấp và pháp chấp, do đó gắn liền giác tha với tự giác.
………………………………..
4.Theo loài mà xuất sanh, tột mé vị lai, ba đời bình đẳng, mười phương đều thông suốt, gọi là Vô tận hạnh.
………………………………..
Xuất sanh là hoặc sanh trong loài đó, hoặc xuất hiện trong loài đó. Trụ được trong tánh thì có được hạnh như tánh. Tánh thì tột mé vị lai, ba đời bình đẳng, mười phương đều thông suốt nên hạnh y vào tánh thì cũng như thế. Tánh thì vô tận nên hạnh là vô tận.
………………………………….
5.Tất cả hợp về đồng, thảy thảy pháp môn được không sai lầm, gọi là Ly si loạn hạnh.
…………………………………
Tất cả tướng hợp thành một tướng, một tướng ấy là ‘‘vậy các pháp là Không tướng, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm’’. Nhờ biết cái Không tướng là nội dung của thảy thảy pháp môn mà được không sai lầm nơi các pháp môn.
Hãy mở mắt ra để thấy cái tất cả hợp về đồng Không tướng ấy, đó cũng là Ly si loạn hạnh.
…………………………………
6.Ở ngay trong cái đồng mà hiện ra cái khác. Nơi mỗi mỗi tướng khác đều mỗi mỗi thấy là đồng, gọi là Thiện hiện hạnh.
…………………………………
Ở trong tánh thì đồng, nhưng khi làm việc thì hiện ra các cái khác, có ta có người, có sự vật này khác với sự vật khác…. Nhưng tuy biểu hiện ra các tướng khác vẫn thấy chúng cùng đồng một tánh. Thấy chúng là đồng tức là đang ở trong tánh. Làm việc với các tướng khác nhau mà vẫn thấy là đồng, đây là tánh tướng không hai, lý sự không hai. Tự tại trong cái không hai này, gọi là khéo hiện (thiện hiện).
…………………………………
7.Như vậy cho đến mười phương hư không đầy khắp vi trần, trong mỗi mỗi vi trần hiện mười phương thế giới. Hiện vi trần, hiện thế giới không ngăn ngại nhau, gọi là Vô trước hạnh.
…………………………………
Trong mỗi vi trần hiện mười phương thế giới, trong cái nhỏ nhất có cái lớn nhất. Đây là cực độ của người chứng tánh Không, như huyễn. Nếu Thiện hiện hạnh ở trên là cảnh giới lý sự vô ngại, thì Vô trước hạnh ở đây là cảnh giới sự sự vô ngại.
Vô trước ở đây là tánh Không rốt ráo, như huyễn toàn triệt, viên thông toàn khắp.
………………………………….
8.Mỗi mỗi trước mắt đều là Đệ nhất ba la mật đa, gọi là Tôn trọng hạnh.
………………………………….
Mỗi mỗi vi trần, mỗi mỗi thế giới trước mắt (hiện tiền) đều là giải thoát đệ nhất, là tánh viên thông, là trí huệ. Kinh Kim Cương nói, ‘‘tất cả pháp đều là Phật pháp’’. Kinh Viên Giác nói, ‘‘tất cả đều là Giác’’.
Tất cả xưa nay vốn là vàng và mỗi thứ bằng vàng đó viên thông, vô ngại với nhau, thấy được sự quý báu đệ nhất này, là hạnh tôn trọng.
…………………………………….
9.Viên dung như thế, có thể thành tựu quy tắc của mười phương chư Phật, gọi là Thiện pháp hạnh.
……………………………………..
Viên dung như thế là ở trong tánh mà hành hạnh, vì chỉ có tánh mới viên dung. Quy tắc của mười phương chư Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Tự giác cũng là Phật tánh, Giác tha cũng là Phật tánh, giác hạnh cũng là Phật tánh, như vậy mới có thể có ngày viên mãn, đó là thiện pháp.
…………………………………..
10.Mỗi mỗi đều là Nhất Chân vô vi, thanh tịnh vô lậu, vì đều là tánh bổn nhiên, gọi là Chân thật hạnh.
……………………………………..
Mỗi mỗi là Niết bàn, mỗi mỗi là Phật, mỗi mỗi là nhất chân vô vi thanh tịnh, vì mỗi mỗi xưa nay đều là Phật tánh bổn nhiên.
Chỉ cần một hạnh trong mười hạnh mà đi cho đến tận cùng thì thành Phật. Vì một hạnh bao trùm tất cả các hạnh, vì một hạnh khai triển tận cùng thì đó chính là tánh bổn nhiên. Hạnh nào cũng được thực hành trên tánh bổn nhiên nên một hạnh bao gồm tất cả các hạnh khác.
Người nào biết làm một hạnh tức là làm tất cả các hạnh người ấy sẽ nhanh chóng đắc tánh bổn nhiên.
………………………………….
1. A Nan, người thiện nam ấy đầy đủ thần thông, Phật sự đã thành tựu đều tinh chân thuần khiết, xa lìa các lỗi lầm. Chính khi hóa độ chúng sanh mà diệt dứt các tướng năng độ, sở độ. Xoay tâm vô vi hướng đường Niết bàn, gọi là Cứu hộ tất cả chúng sanh, lìa chúng sanh tướng Hồi hướng.
……………………………………
Hồi hướng có hai, hồi hướng về chúng sanh và hồi hướng về tánh bổn nhiên. Nhưng tánh chúng sanh là tánh bổn nhiên, nên hồi hướng về chúng sanh tức là hồi hướng về tánh bổn nhiên, và hồi hướng về tánh bổn nhiên tức là hồi hướng về chúng sanh.
Cứu giúp chúng sanh nhưng vẫn ở trong tánh Không không có ta, người, tức là hồi hướng về Niết bàn tánh Không. Như vậy càng cứu giúp chúng sanh nhưng lìa tướng chúng sanh thì càng hướng về con đường tánh Không. Đây là tự giác, giác tha đồng nhất để càng thâm nhập tánh Không, vì thật tướng của tự giác giác tha là tánh Không. Trí huệ tánh Không và đại bi hành động cứu giúp dần dần hợp nhất.
…………………………………..
2.Hoại diệt cái có thể hoại, xa lìa các sự lìa, gọi là Bất hoại hồi hướng.
…………………………………
Cái có thể hoại là cái hư giả, không thật, đó là các tướng. Hoại diệt các tướng là đưa chúng trở về thực tướng Không tướng của chúng. Các sự có thể lìa là các thứ hư giả, cho đến cái sự lìa cũng được xa lìa.
Cho đến không có gì để có thể hoại, không có gì để có thể lìa, đây là cái vốn bất hoại vì xưa nay chưa từng có tướng, là cái vốn xa lìa vì xưa nay chưa từng ô nhiễm.
………………………………..
3.Bản giác lặng trong như nhiên, giác bằng với giác của Phật, gọi là Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng.
…………………………………
Bản giác vốn lặng trong như nhiên. Khi không có gì để có thể hoại, để có thể lìa thì đây là bản giác hay tánh Không bằng với cái giác của Phật.
Tâm bản giác này luôn luôn hiện diện nơi mình, thậm chí khi không hoại diệt, khi không lìa thì nó vẫn có đó, bình đẳng với tâm vốn giác của Phật. Khi có ý tưởng, có tướng chẳng lẽ không có tâm bản giác? Tấm gương khi có bóng chẳng lẽ đó chẳng phải là tấm gương? Bầu trời khi có mây chẳng lẽ chẳng phải là bầu trời?
…………………………………..
4.Tinh chân phát sáng, địa như Phật địa, gọi là Chí nhất thiết xứ hồi hướng.
…………………………………
Tinh chân là thủy giác (còn tánh chân là bản giác), dùng chữ của Đại toàn thiện là Tịnh quang con. Thủy giác phát sáng cho nên tương ưng được, hồi hướng được về bản giác hay tịnh quang mẹ. Ở đây, địa giống như Phật địa, mà Phật địa thì khắp tất cả chỗ (chí nhất thiết xứ) cho nên tinh chân phát sáng khắp tất cả chỗ, là một với bản giác.
……………………………….
5.Thế giới, Như Lai hỗ tương dung nhập, được không chướng ngại, gọi là Vô tận công đức tạng hồi hướng.
………………………………..
Với Như Lai thì thế giới là Báo thân và Hóa thân, nên hỗ tương dung nhập với Pháp thân tức Như Lai. Không chướng ngại giữa thế giới và Như Lai, nghĩa là thế giới tức là Như Lai, Như Lai tức là thế giới. Lúc ấy bèn thọ dụng Vô tận công đức tạng, ‘‘mỗi mỗi đều là Nhất Chân vô vi, thanh tịnh vô lậu, vì đều là tánh bổn nhiên’’.
………………………………….
6.Ở nơi đồng với Phật địa, trong ấy mỗi mỗi sanh nhân thanh tịnh, y những nhân ấy mà phát huy, giữ lấy đạo Niết bàn, gọi là Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng.
………………………………….
Ở nơi đồng với Phật địa, thì trong ấy cái gì sanh ra đều là nhân thanh tịnh và nhân ấy là quả Niết bàn. Cái gì cũng là thiện căn bình đẳng một vị Niết bàn, nên y những nhân ấy mà phát huy rồi hồi hướng, bèn có ngay quả Niết bàn, gọi là giữ lấy đạo Niết bàn.
…………………………………..
7.Chân căn đã thành, mười phương chúng sanh đều là bản tánh của mình. Tánh thành tựu viên mãn không bỏ sót một chúng sanh, gọi là Tùy thuận đẳng giác nhất thiết chúng sanh hồi hướng.
…………………………………..
Thiện căn bình đẳng là chân căn. Chân căn này là bản tánh của mình và của tất cả chúng sanh. Thế nên khi chân căn thành tựu thì mười phương chúng sanh đều là bản tánh của mình, không bỏ sót chúng sanh nào. Bản tánh ấy vốn viên thành, nên tất cả đều là Giác.
Như tấm gương sáng, bản tánh của mình và của tất cả chúng sanh đồng là một tấm gương, gương bình đẳng nhiếp tất cả các bóng, không bỏ sót một chúng sanh nào. Ánh sáng của gương là trí, sự rộng khắp của gương để in bóng tất cả là bi. Trí bi hợp nhất là tấm gương. Chân căn tấm gương này tùy thuận bình đẳng quán chiếu tất cả chúng sanh, trong đó tất cả chúng sanh bổn lai thành Phật.
…………………………………..
8.Tức tất cả pháp, lìa tất cả tướng. Cả tức và lìa đều không dính mắc, gọi là Chân như tướng hồi hướng.
…………………………………..
Chân căn tấm gương ấy là Chân Như, in bóng tất cả pháp vào đó, tất cả pháp đều là Chân Như. Tấm gương là tất cả bóng, nhưng tất cả tướng bóng ấy không thể in chết cứng vào tấm gương. Với tấm gương, tất cả tướng bóng đều lìa.
Chân Như là ‘‘tức tất cả pháp, lìa tất cả tướng’’. Tức tất cả pháp, đây là Diệu Hữu. Lìa tất cả tướng, đây là Chân Không. Đời sống đích thực là Chân Không Diệu Hữu. Đây là điều phải được trải nghiệm, chứng ngộ thì cuộc đời mới đầy dẫy Thường Lạc Ngã Tịnh được.
‘‘Tức tất cả pháp, lìa tất cả tướng’’, chỉ một câu này mà tham thiền cho đến rốt ráo thì địa nào cũng đạt đến.
……………………………………….
9.Thật đắc tất cả đều Như, mười phương vô ngại, gọi là Vô phược giải thoát hồi hướng.
………………………………….
Tất cả bóng trong gương đều là gương, tất cả đều là Như, mười phương đều là Như nên tất cả mười phương vô ngại, đó gọi là không trói buộc, giải thoát. Giải thoát không phải là lìa khỏi, đi đâu cả. Giải thoát là thấy tất cả đều Như.
……………………………………..
10.Đức của tánh viên thành, hạn lượng của pháp giới diệt, gọi là Pháp giới vô lượng hồi hướng.
………………………………….
Tánh thì ở khắp cả, vô lượng. Vì pháp giới tánh thì toàn khắp vô lượng nên pháp giới cũng toàn khắp, vô lượng. Nhưng chưa chứng được cái đức của tánh là vô lượng nên thấy pháp giới có hạn lượng. Khi chứng được cái đức của tánh là vô lượng thì pháp giới trở thành vô lượng.
…………………………………..
A Nan, người thiện nam ấy qua hết bốn mươi mốt tâm thanh tịnh ấy rồi, cần thành tựu bốn thứ gia hạnh diệu viên.
1.Tức là lấy cái giác của Phật dùng làm tâm mình, như ra nhưng chưa ra, cũng như dùi cây cho ra lửa để đốt lại cây, gọi là Noãn địa.
……………………………………..
Sơ tâm Càn huệ địa đầu tiên cũng là cái giác của Phật, nhưng mới chỉ là bóng dáng. Trải qua Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng thì cũng vẫn là cái tâm giác của Phật nhưng càng lúc càng hiện rõ ràng hơn, nhờ sự khai triển sâu rộng hơn của hành giả. Ở một địa vị trong bốn mươi địa vị này mà khai triển cho tột cùng thì đó là tâm giác của Phật không khác. Có địa nào có thể ở ngoài Phật địa đâu?
Cho nên chỉ cần lấy một Trụ, một Hạnh, một Hồi hướng mình thích hợp nhất rồi Văn, Tư, Tu bằng Chỉ, Quán, Thiền như một đề mục duy nhất thì có ngày xuyên thủng mà vào Pháp thân.
Với quá trình công thức và chính thức này, dầu qua hết bốn mươi tâm thanh tịnh, nhưng tâm ấy chưa là một với tâm Phật, cũng tức là Pháp thân của chư Phật. Phải vào Thập Địa mới thật sự là thánh, thật sự từ bỏ sanh tử, vì từ đây mới thật sự đứng trên đất Phật, cùng chung một tâm Phật, cùng chung một Pháp thân với tất cả chư Phật.
Muốn vượt qua cái ngưỡng phân chia sanh tử với Niết bàn, phân chia thức và trí, phân chia bậc Tam hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) với bậc thánh Bồ tát Pháp thân thì phải nỗ lực, gia tăng tốc độ (gia hạnh). Thần chú của Bát Nhã Tâm Kinh nói lên ý nghĩa vượt qua này.
Noãn địa, địa của sức nóng, là cái đầu tiên của bốn Gia hạnh vị. Lấy cái giác của Phật làm tâm mình, nghĩa là mượn cái giác của Phật chứ tự tâm mình chưa phải là cái giác của Phật. Thấy như ra thoát nhưng chưa ra thoát, đầu thì lọt vào hư không bao la nhưng thân còn kẹt trong năm ấm. Cho nên nỗ lực tinh tấn, tạo ra sức nóng, như dùi cây cho ra lửa để đốt cháy tiêu cả hai cây. Cháy tiêu cả hai cây, chủ thể và đối tượng, ngã và pháp, tu và đắc, thì mới là tâm Phật.
……………………………………
2.Lại lấy tâm mình thành chỗ bước của Phật, như nương mà chẳng phải nương, như lên núi cao, thân đã vào hư không mà ở dưới còn chút ngăn ngại, gọi là Đỉnh địa.
………………………………………..
Bốn Gia hạnh vị này là các bước chuẩn bị để đi vào Pháp thân hay tánh bổn nhiên, Kinh diễn tả cụ thể những bước chuẩn bị nhảy này.
Đảnh địa là lấy cái tâm gần giống tâm Phật của bốn mươi cấp bậc ở trước mà bước thêm. Lên đến đỉnh của cuộc đời thế gian, như trên đỉnh núi, thân đã vào tánh Không nhưng chân vẫn còn chạm đất. Chân như còn nương y vào đất, còn có chỗ trụ, chưa dám nhảy vào tánh Không vì phiền não chướng và sở tri chướng còn nhiều, chấp ngã chấp pháp còn nặng. Muốn phá thấu vào tánh Không, phải loại trừ hai thứ nghiệp chướng này thêm nữa.
……………………………………….
3.Tâm và Phật cả hai đồng, khéo được Trung đạo, như người nhẫn chịu, chẳng phải ôm vào chẳng phải bỏ ra, gọi là Nhẫn địa.
……………………………………….
Con đường Phật giáo ít nói chứng đắc mà nói đến nhẫn: nhẫn chịu sự thật là vô ngã vô pháp, cho đến Vô sanh pháp nhẫn.
Đến đây phải nhẫn chịu tánh Không thì mới lọt vào được. Tâm và Phật là tánh Không-Minh, nhưng chưa hợp với tánh được vì chưa thấu thoát qua chấp ngã chấp pháp. Cho nên phải nhẫn chịu, ôm vào thì chẳng dám ôm lâu mà bỏ ra thì mất công phu từ trước đến giờ.
……………………………………..
4.Số lượng tiêu diệt, mê, giác và trung đạo cả hai đều không có chỗ để nêu, gọi là Thế đệ nhất địa.
…………………………………….
Số lượng là các tướng khác nhau, hữu hạn, theo trật tự thứ lớp. Số lượng tiêu diệt thì cái vô hạn bắt đầu hiện ra.
Các tướng tiêu thì tánh hiện, không chạy theo các bóng trong gương thì gương hiện. Thậm chí các ý niệm mê, giác và trung đạo cũng không còn trong tâm. Ở nơi tâm không còn chỗ trụ này bèn nhảy vào đất thật là tánh Không Minh.
Thế đệ nhất địa là chỗ cao nhất của thế gian ba cõi, nhưng dầu cao nhất như các vua cõi trời thì vẫn ở trong sanh tử.
………………………………………..
1.A Nan, người thiện nam ấy khéo được thông đạt với Đại Bồ đề. Giác thông với Như Lai, cùng tột cảnh giới của Phật, gọi là Hoan hỷ địa.
……………………………………….
Vào Hoan hỷ địa là thông đạt với Đại Bồ đề tức Pháp thân, hay còn gọi là Căn bản trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí…. Duy thức tông gọi là Kiến đạo vị, địa vị thấy Đạo. Thiền tông gọi là thấy Tánh. Đại Ấn và Đại Toàn Thiện cũng chia các cấp bậc tu chứng theo Thập địa (xem chương Bốn cấp bậc của Yoga_Tánh Giác lộ toàn thân của Karma Chagmé, TTT, 2003 và Bốn thị kiến và Mười Địa_Phật Tâm của Longchenpa, TTT, 2000).
Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa nói về Hoan Hỷ địa như sau :
‘‘Bồ tát như vậy liền vượt khỏi phàm phu mà vào vị Bồ tát, sanh vào nhà Như Lai…, gọi là trụ bậc Bồ tát Hoan hỷ địa, vì đã tương ưng với Chân Như bất động….
Vì đã chuyển rời tất cả cảnh giới thế gian mà hoan hỷ, vì thân cận tất cả Phật mà hoan hỷ, vì xa lìa phàm phu mà hoan hỷ, vì dứt hẳn tất cả đường ác mà hoan hỷ, vì làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanh mà hoan hỷ, vì thấy tất cả Như Lai mà hoan hỷ, vì sanh vào cảnh giới Phật mà hoan hỷ, vì đi vào tất cả tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát mà hoan hỷ…’’
Tóm lại, Địa này ‘‘giác thông với Như Lai’’ nghĩa là đã trực tiếp thấy biết Chân Như, chứng được từng phần Pháp thân của chư Phật, do đó thấy biết cảnh giới Phật, thân cận với chư Phật.
Thập địa là nền tảng của Phật giáo, vì là nền tảng cho nên đều dùng chữ Địa. Có thấy biết trực tiếp Chân Như thì mới thực sự tin (Thập Tín), mới thực sự an trụ (Thập Trụ), mới thực sự thực hành hạnh tương ưng với Chân Như, ‘‘xứng tánh làm Phật sự’’ (Thập Hạnh), mới biết đâu là chỗ để hướng đến (Thập Hồi Hướng). Đây mới chính là Càn huệ địa đích thực.
Từ Sơ địa trở lên Bồ tát luôn luôn lấy đại bi làm đầu mà tiến tới. Mỗi địa chứng được một phần Pháp thân, thì cũng đồng thời được một phần Báo thân và Hóa thân.
……………………………………..
2.Tánh khác nhập vào đồng, tánh đồng cũng diệt, gọi là Ly cấu địa.
……………………………………
Tánh khác là những tướng khác biệt do vọng thấy bây giờ nhập vào tánh đồng. Nhưng tánh đồng này là tánh Không-Minh nên tánh đồng cũng diệt vì trong tánh Không-Minh, đồng và khác chỉ là hý luận. Ly cấu địa là lìa cái dơ của tánh khác và cả cái dơ vi tế của tánh đồng.
…………………………………….
3.Thanh tịnh cùng tột, ánh sáng phát sanh, gọi là Phát quang địa.
………………………………………
Khi các tướng phân biệt diệt thì ánh sáng bổn nhiên của tánh lộ bày, gọi là Phát quang địa. Ánh sáng này trùm khắp trời đất.
………………………………………….
4.Ánh sáng cùng tột, giác tròn đầy, gọi là Diệm huệ địa.
…………………………………………..
Đến đây ánh sáng phát sanh cùng tột, như ngọn lửa mạnh tiêu trừ các nghiệp che chướng, do đó giác tròn đầy. Diệm huệ là trí huệ như ngọn lửa sáng.
…………………………………………
5.Tất cả đồng và khác không thể đến được, gọi là Nan thắng địa.
……………………………………….
Khác là thế giới sanh tử, đồng là một vị Niết bàn. Khác là các tướng, đồng là tánh. Đến đây sự phân biệt giữa sanh tử và Niết bàn, giữa tướng và tánh không còn. Đại bi bao trùm sanh tử và Trí huệ thấu suốt Niết bàn tánh Không hợp nhất. Sự việc này rất khó đạt, vượt hàng Thanh Văn, nên gọi là Nan thắng.
……………………………………….
6.Tánh chân như vô vi thanh tịnh bày lộ rõ ràng, gọi là Hiện tiền địa.
…………………………………………
Khi thanh tịnh đã tột, ánh sáng đã tột, sanh tử Niết bàn thành một vị, khi ấy tánh chân như Minh Không bày lộ rõ ràng trước mắt.
Mắt thấy cái gì thì cái đó là Chân Như, tai nghe tiếng gì thì tiếng đó là Chân Như, ý nghĩ thế nào thì ý nghĩ ấy là Chân Như.
………………………………………..
7.Tận cùng bờ mé Chân Như, gọi là Viễn hành địa.
Tận cùng bờ mé Chân Như, lúc này sanh tử lùi lại thật xa xôi, như còn như mất, gọi là đi xa (viễn hành).
Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘‘Bồ tát từ Sơ địa đến Đệ thất địa thành tựu trí công dụng phần, từ Đệ bát địa đến Đệ thập địa vô công dụng hạnh đều được thành tựu.
Ví như có hai thế giới, một thì tạp nhiễm, một thì thuần tịnh. Chặng giữa hai thế giới này khó qua được, chỉ trừ bậc Bồ tát có đại nguyện lực phương tiện trí huệ mới có thể qua được.
Từ Sơ địa đến Đệ thất địa, công hạnh tu tập đều lìa bỏ nghiệp phiền não, vì hồi hướng Vô thượng Giác ngộ, vì phần được đạo bình đẳng, nhưng chưa được gọi là hạnh siêu phiền não…. Từ Sơ địa đến Đệ thất địa, vì ngự chánh đạo nên chẳng bị lỗi lầm của phiền não làm lây nhiễm, nhưng chưa gọi là hạnh siêu phiền não. Nếu bỏ tất cả hạnh hữu công dụng, từ Đệ thất địa vào Đệ bát địa, ngự xe Bồ tát, thanh tịnh du hành thế gian, biết phiền não lỗi lầm chẳng bị lây nhiễm, mới gọi là hạnh siêu phiền não, vì được siêu quá khỏi tất cả’’.
………………………………………
8.Một tâm Chân Như, gọi là Bất động địa.
………………………………………..
Chỉ còn một tâm Chân Như, hết hẳn sanh tử. Đến đây mới gọi là hạnh vô công dụng, vô học, không tu nữa. Đến đây là trọn vẹn đạt đến Không, Vô tướng, Vô nguyện chung cho cả Bồ tát và Thanh Văn.
‘‘Bồ tát này vào tất cả pháp bổn lai vô sanh, vô khởi, vô tướng, vô tánh… là chỗ nhập của trí như như, lìa tất cả tưởng phân biệt tâm, ý, thức, không chỗ chấp lấy dường như hư không, vào tất cả pháp như tánh hư không, đây gọi là đắc Vô sanh pháp nhẫn’’.
Kinh Hoa Nghiêm gọi địa này là Bất động địa, Bất thối chuyển địa, Nan đắc địa, Đồng chân địa, Sanh địa, Thành địa, Cứu cánh địa, Biến hóa địa, Lực trì địa, Vô công dụng địa.
Lấy một thí dụ cụ thể, là các niệm. Ở Sơ địa, vì mới tương ưng với Chân Như tánh Không, nên khi niệm khởi bèn đưa nó trở về Chân Như tánh Không. Đây gọi là có công dụng. Còn ở Địa thứ Tám, thì khi niệm khởi, dĩ nhiên đây là niệm tốt, không còn niệm xấu, niệm ấy tự động tan vào tánh Không. Sự tự động tan vào tánh Không ấy hoàn toàn đến nổi dù có niệm khởi nhưng vẫn là Vô niệm. Đây gọi là vô công dụng đạo, hoàn toàn đắc Không, Vô tướng, Vô niệm, Vô tác.
Nói theo ba a tăng tỳ kiếp, thì đến đây là xong a tăng kỳ kiếp thứ hai. Đệ bát địa Bồ tát tương đương với vị A La Hán nhưng thay vì nhập Niết bàn, thì với vị Bồ tát, chư Phật hiện ra khuyên phải nhớ lại bổn nguyện không bỏ chúng sanh mà tiếp tục cho đến thành Phật.
…………………………………….
9.Phát cái dụng Chân Như, gọi là Thiện huệ địa.
A Nan, các Bồ tát ấy từ đây về trước công hạnh tu tập đã xong, công đức được viên mãn, cũng gọi địa này là Tu tập vị.
……………………………………..
Từ Sơ Hoan hỷ địa, gọi là Kiến đạo vị, sau đó là Tu tập vị, đến Địa thứ Chín này là hoàn tất Tu tập vị, hoàn toàn không tu nữa. Chia theo Duy thức tông và các tông khác, thì từ đây cho đến thành Phật gọi là Cứu cánh vị.
Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘‘Bồ tát này có Bốn vô ngại trí… được trí vô ngại thiện xảo như vậy, được Phật pháp tạng làm đại Pháp sư, được nghĩa đà la ni, pháp đà la ni, trí huệ đà la ni, quang chiếu đà là ni, thiện huệ đà la ni…’’. Còn nhiều diệu dụng khác của Chân Như xin đọc trong Kinh Hoa Nghiêm.
…………………………………………
10.Bóng Từ mây Diệu trùm biển Niết bàn, gọi là Pháp vân địa.
…………………………………………
Bồ tát này được chư Phật quán đảnh. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Đại Bồ tát Thọ Chức cũng như vậy: vì trí thủy của chư Phật rưới vào đầu nên gọi là thọ chức, vì đây đầy đủ trí lực Như Lai nên dự vào hàng chư Phật…”.
Bóng từ là từ bi, mây diệu là trí huệ, đến đây viên mãn, trùm khắp pháp giới. Từ Tư lương vị là bắt đầu hai sự tích tập công đức và tích tập trí huệ, hai sự tích tập ấy đến đây là viên mãn.
……………………………………..
Như Lai ngược dòng trở lại, còn vị Bồ tát như vậy thuận dòng mà đến. Ranh giới của Giác giao tiếp nhập vào nhau, gọi là Đẳng giác.
A Nan, từ tâm Càn huệ đến Đẳng giác rồi, cái giác này mới được Sơ Càn huệ địa trong tâm Kim cương.
………………………………….
Đẳng giác là cái giác bình đẳng với chư Phật. Phật vì tâm đại bi mà ngược dòng trở xuống. Bồ tát này thuận dòng đi lên, cả hai cái giác giao tiếp nhập vào nhau.
Đẳng giác tuy là cái giác không còn ranh giới với Phật nhưng mới được Sơ Càn huệ địa trong tâm Kim cương. Tâm Kim cương là tâm Phật.
Bước đầu tiên của con đường vẫn là một tâm Kim cương bất hoại, bất sanh bất diệt vốn tự sẳn đủ ấy. Nhưng có thể nói bốn mươi vị đầu thì chỉ mới nắm bắt được bóng dáng tỏa sáng của viên kim cương. Phải vào Thập Địa mới thật nắm bắt, thấy biết được viên kim cương. Và phải tới Đẳng giác thì mới thật sự chứng ngộ được viên kim cương trong bản chất cốt lõi của nó.
…………………………………..
Như vậy, lớp lớp tu đơn, tu kép mười hai địa vị mới cùng tột Diệu giác, thành Vô thượng đạo.
……………………………………
Tu đơn là tu một địa vị. Nhưng trong một địa vị ấy có và thông với tất cả các địa vị, đó là tu kép. Một trụ thì có cả chín trụ kia, một địa thì có cả chín địa kia. Chẳng hạn, Sơ địa tu Bố thí ba la mật, thì Bố thí có cả chín Ba la mật kia hỗ trợ. Tu kép là tu đồng bộ những cái khác cùng một lúc.
Tu đơn, chẳng hạn, là tu riêng Chỉ. Tu kép là vừa Chỉ vừa Quán. Tu kép là vừa tu Trí, vừa tu Bi, vừa tu Hạnh…. Tóm lại, tu một pháp, nhưng trong pháp ấy có tất cả các pháp khác. Đây là Bồ tát hạnh để thành Phật.
Tu đơn, tu kép mười hai địa vị, từ Sơ địa cho đến Diệu giác được trọn vẹn thì thành Vô thượng đạo, thành Phật.
……………………………………..
Các địa này đều do trí Kim cương quan sát như huyễn mười thứ thí dụ sâu xa, trong Xa ma tha dùng các pháp Tỳ bà xá na của Như Lai mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt thâm nhập.
A Nan, như thế đều dùng ba tiệm thứ tăng tiến, khéo thành tựu năm mươi lăm vị trong con đường chân thật của giác ngộ.
Hành quán như vậy, gọi là chánh quán, nếu quán khác đi, gọi là tà quán.
………………………………….
Viên kim cương tâm có ba đức tính:
– Bất động, bất hoại, hay là Tịch, hành giả phải dùng Chỉ (Xa ma tha) hay Định để thâm nhập.
– Sáng chiếu khắp cả, biến tất cả thành như huyễn, hay là Chiếu, hành giả phải dùng Quán (Tỳ bà xá na) để tương ưng thâm nhập. Quán này là quán như huyễn, gồm mười thứ thí dụ :
1) Như huyễn
2) Như sóng nắng
3) Như trăng trong nước
4) Như hoa đốm giữa hư không
5) Như tiếng vang từ hang
6) Như thành Càn thát bà
7) Như mộng
8) Như bóng
9) Như hình tượng
10) Như biến hóa
Càng thấy như huyễn bao nhiêu thì càng đi sâu vào viên Kim cương bấy nhiêu và càng đi sâu vào viên kim cương bao nhiêu thì càng thấy như huyễn bấy nhiêu.
– Trong suốt, thanh tịnh, không ô nhiễm nhưng có đủ màu sắc diệu dụng. Sự thực hành công đức khiến hành giả tương ưng và chứng ngộ được công đức của tâm kim cương vốn là trong suốt, thanh tịnh, vô nhiễm khắp cả, đồng thời có đủ tất cả các chiếu hiện. Kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói: “Hiện nay ba cõi này, đều là của ta cả” (Phẩm Phương tiện, thứ 3).
Con đường Phật giáo là “Các ác chớ làm, các thiện vâng làm, tự tịnh kỳ ý, lời chư Phật dạy”. Ba tiệm thứ tăng tiến là sự tự tịnh hóa ban đầu, càng đi sâu thì ba tiệm thứ càng vi tế vì càng có thêm nhiều phương tiện để cuối cùng giải trừ ô nhiễm chấp ngã và chấp pháp, đạt đến tâm kim cương vốn chưa từng ô nhiễm. Các địa vị được chia thành năm mươi lăm vị là chia theo sự thanh tịnh, sự tịnh hóa ít hay nhiều. Có điều người tu cần biết là sự tịnh hóa không phải ở ngoài tâm kim cương mà tịnh hóa trên chính tâm kim cương. Như chùi bụi bẩn trên mặt gương, chính nơi chỗ chùi là mặt gương.
……………………………………..
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: Phải gọi tên kinh này là gì? Con và chúng sanh phụng trì như thế nào?
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Kinh này tên là Đại Phật Đảnh, Tát đát đa, bát đát ra, Vô thượng bảo ấn, Mắt biển thanh tịnh của mười phương Như Lai.
………………………………….
Giảng nói hết năm mươi lăm địa vị là hoàn thành con đường Phật đạo. Đến bây giờ ngài Văn Thù thưa hỏi tên kinh để tổng trì toàn bộ kinh.
Đại Phật Đảnh là giác ngộ vô thượng của Phật, là Pháp thân vô tướng, vô niệm, vô trụ, cũng là Như Lai tạng diệu chân như tánh. Thần chú là sự thể hiện cái vô tướng ấy qua âm thanh hữu hình. Bảo ấn là cái ấn “thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới”. Đó là con mắt pháp giới rộng như biển thanh tịnh của mười phương Như Lai, cũng là Đại viên cảnh trí của đức Quán Thế Âm được nói trong phần căn tai viên thông.
………………………………….
Cũng gọi tên là Cứu hộ thân nhân, độ thoát A Nan cùng Tánh tỳ kheo ni trong hội này đắc tâm Giác ngộ, nhập biển biết khắp.
………………………………………..
Ở trước, kinh nói, “Như Lai thực hành tâm chú này, ở trong mười phương nhiếp độ thân nhân…”. Thần chú này cứu độ cho ngài A Nan và Tánh tỳ kheo ni khỏi sa vào dâm dục và đắc tâm Bồ đề, nhập biển pháp giới. Tên này nói nhân duyên thuyết ra kinh này.
……………………………………..
Cũng tên là Như Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa.
……………………………………..
Mật nhân là nhân địa bí mật. Nói là nhân địa bí mật là vì khó thấy, chứ nhân địa chẳng sanh chẳng diệt ấy đi đâu cũng có, lúc nào cũng có nó. Tu trên và trong nhân địa ấy mới chứng đắc quả địa chẳng sanh chẳng diệt của Như Lai. Liễu nghĩa là rõ ràng, hiển nhiên không cần qua giải thích lòng vòng của triết học tư biện.
………………………………………..
Cũng tên là Đại phương quảng Diệu Liên Hoa Vương, Chú Đà la ni của mười phương Phật mẫu.
Cũng tên là Quán đảnh chương cú, chư Bồ tát vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm. Ông hãy phụng trì.
…………………………………….
Ở trước có nói đến Diệu Liên Hoa tam muội Kim cương Như huyễn. Diệu Liên Hoa Vương là Phật tánh mà tất cả chúng sanh đều có. Phật tánh ấy thường tịch (tam muội kim cương) mà thường chiếu (như huyễn), đồng thời đầy đủ sắc thanh hương vị xúc pháp thanh tịnh mầu diệu như hoa sen.
Chú Đà la ni là âm thanh thể hiện Diệu liên hoa vương ấy. Diệu liên hoa vương xuất sanh chư Phật, nên được gọi là Phật mẫu.
Thọ trì kinh này tức là thọ nhận sự quán đảnh hộ trì của chư Phật. Từ Diệu liên hoa vương tức là Phật tánh, tức là tánh nghe đối với căn tai viên thông của Bồ tát Quán Thế Âm, xuất sanh vạn hạnh của chư Bồ tát, hạnh nào cũng từ Thủ Lăng Nghiêm và tức là Thủ Lăng Nghiêm.
…………………………………….
Phật nói lời ấy xong, liền khi ấy A Nan và cả đại chúng, nhờ được Như Lai khai thị nghĩa mật ấn Bát Đát Ra và nghe được những tên liễu nghĩa của kinh này liền đốn ngộ diệu lý tăng thượng để tu tiến các thánh vị trong Thiền na. Tâm tư rỗng lặng, đoạn trừ sáu phẩm phiền não vi tế của tư hoặc trong tam giới.
……………………………………
Đoạn trừ sáu phẩm phiền não của tư hoặc chứng được quả thứ hai trong bốn quả Thanh Văn.
……………………………………….
A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng: Đại oai đức Thế Tôn, từ âm không che ngại, khéo khai thị những mê lầm sâu kín nhỏ nhiệm của chúng sanh, khiến cho con ngày nay thân tâm khoan khoái rỗng rang, được lợi ích lớn.
Bạch Thế Tôn, cái Chân Tâm sáng sạch diệu mầu này bổn lai toàn khắp viên mãn như thế cho đến đất đai, cỏ cây, các loài máy động vốn nguyên là Chân Như, tức là chân thể thành Phật của Như Lai. Nếu thể Phật vốn chân thực như thế thì cớ sao lại có các nẻo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tu la, người, trời. Bạch Thế Tôn các đường ấy là bổn lai tự có hay do tập khí hư vọng của chúng sanh sanh khởi?
Bạch Thế Tôn, như Tỳ kheo ni Bảo Liên Hương giữ giới Bồ tát lén làm việc dâm dục, lại nói càn rằng hành dâm chẳng phải sát sanh, chẳng phải trộm cắp, không có nghiệp báo. Nói ra lời ấy rồi, trước hết từ nơi nữ căn sanh ra ngọn lửa lớn, sau nơi mỗi mỗi đốt xương đều bị lửa đốt cháy, đọa địa ngục Vô gián.
Như đại vương Lưu Ly và Tỳ kheo Thiện Tinh vì giết hại họ hàng Cù Đàm. Thiện Tinh vì nói càn tất cả pháp đều rỗng không mà thân đang sống phải đọa vào ngục A tỳ.
Các địa ngục đó là có chỗ nhất định hay là tự nhiên, mà khi các người kia gây ra nghiệp thì mỗi người mỗi riêng chịu?
Cúi mong Phật rủ lòng đại từ, khai thị cho kẻ non dại, khiến cho tất cả chúng sanh trì giới nghe nghĩa quyết định, hoan hỷ kính cẩn giữ gìn không phạm.
…………………………………….
Ngài A Nan hỏi về những nghiệp tạo thành các cõi như thế nào, tại sao cõi thì chung mà mỗi người chịu nghiệp báo riêng?
Việc tạo thành thế giới là do vọng tưởng kết thành, “do minh mà lập sở đối đãi lẫn nhau, nổi lên làm thành thế giới, tịch lặng thì thành hư không, hư không là đồng, thế giới là khác”.
Nghiệp là từ tâm ý khởi sanh rồi ra khẩu, ra thân. Nghiệp nặng thì đọa vào các cõi thấp, nghiệp nhẹ thì làm trời, người.
“Cái Chân Tâm sáng sạch diệu mầu này bổn lai toàn khắp viên mãn như thế, cho đến đất đai, cỏ cây các loài máy động vốn nguyên là Chân Như, tức là chân thể thành Phật của Như Lai”: Tâm ta vốn bình thường như thế, còn nếu sanh một niệm nào tương ứng với một trong sáu loài bèn đã gieo nhân vào loài ấy.
Cùng một gốc là Như Lai tạng diệu chân như tánh, nhưng tùy tâm ý mà biến hiện ra cõi tốt cõi xấu. Để cải thiện nghiệp thì hãy cải thiện tâm ý. Để hết nghiệp thì hãy tìm nơi tâm ý.
………………………………….
Phật bảo A Nan: Hay thay, lời hỏi đó, khiến cho chúng sanh chẳng mắc vào tà kiến. Nay ông hãy nghe kỹ, ta sẽ vì ông nói.
A Nan, tất cả chúng sanh thật vốn là chân tịnh, nhân những vọng kiến của họ mà có các thói quen tích tập hư vọng sanh ra, nhân đó mà chia ra phần trong và phần ngoài.
A Nan, phần trong tức là trong phần của chúng sanh. Nhân các ái nhiễm phát khởi vọng tình, tình tích chứa không ngừng thì sanh ra nước ái. Bởi thế chúng sanh hễ tâm nhớ đến thức ăn ngon thì trong miệng chảy nước bọt; tâm nghĩ đến người trước, hoặc thương hoặc giận thì nước mắt chảy ra; tham cầu của báu thì tâm phát ra nước ái cả mình đều trơn nóng; tâm đắm trước hành dâm thì hai căn nam nữ tự nhiên nước dịch khí chảy ra.
A Nan, các ái tuy có khác nhau, nhưng kết quả chảy nước là đồng, thấm ướt không bốc lên được, tự nhiên theo đó mà rơi xuống, đó gọi là phần trong.
A Nan, phần ngoài tức là ngoài phần của chúng sanh. Nhân các khao khát mà phát sanh ra những tưởng hư vọng. Tưởng tích chứa không ngừng thì sanh ra các khí. Bởi thế chúng sanh tâm giữ giới cấm thì cả thân thể nhẹ nhàng thanh thoát. Tâm giữ chú ấn thì mắt nhìn hùng dũng, uy nghiêm. Tâm muốn sanh lên cõi trời thì chiêm bao thấy bay lên; tâm để nơi cõi Phật thì cảnh thánh thầm hiện. Phụng thờ thiện tri thức thì tự xem thân mạng là nhẹ.
A Nan, các tưởng tuy khác nhau, nhưng sự nhẹ nhàng cất lên thì đồng, cất bay lên không chìm xuống, tự nhiên vượt lên, đó gọi là phần ngoài.
………………………………….
Tất cả chúng sanh thật vốn là chân tịnh, mà do các thói quen tích tập hư vọng sanh ra. Tích tập tình thì sanh ra nước chảy xuống, gọi là phần trong. Tích tập tưởng thì sanh ra khí bốc lên, gọi là phần ngoài. Nghiệp tình thì chảy xuống, nghiệp tưởng thì bay lên.
Còn không tình, không tưởng thì đây là chân thể thành Phật của Như Lai.
……………………………………
A Nan, hết thảy thế gian sống chết nối nhau, sanh là do thuận theo thói quen tích tập, tử thì theo sự đổi dòng. Lúc mạng chung chưa hết hơi nóng thì thiện ác một đời cùng lúc hiện ra. Cái nghịch của chết cái thuận của sống, hai tập khí giao nhau.
Thuần là tưởng thì bay lên, hẳn là sanh lên các cõi trời. Nếu trong tâm bay lên ấy gồm có phước đức và trí huệ cùng với nguyện thanh tịnh, thì tự nhiên tâm mở tỏ, thấy tất cả Tịnh độ của mười phương chư Phật, rồi tùy nguyện mà vãng sanh.
Tình ít, tưởng nhiều thì cất lên chẳng xa mà làm các loài phi tiên, đại lực quỷ vương, phi hành dạ xoa, địa hành la sát, dạo trong bốn cõi trời không bị ngăn ngại. Trong số đó nếu có thiện tâm thiện nguyện ủng hộ Phật pháp, hoặc ủng hộ giới cấm thì theo người trì giới, hoặc ủng hộ thần chú thì theo người trì chú, hoặc ủng hộ thiền định thì giữ yên pháp nhẫn, hết thảy hạng ấy đều được gần gủi dưới pháp tòa của Như Lai.
Tình và tưởng ngang nhau thì không bay lên, không rơi xuống, nên sanh nơi cõi người. Tưởng sáng thì thông minh, tình tối thì ngu độn.
Tình nhiều tưởng ít thì trôi dạt vào loài cầm thú; nặng thì làm loài mang lông, nhẹ thì làm loài có cánh.
Bảy phần tình ba phần tưởng thì chìm xuống thủy luân, sanh nơi mé hỏa luân, thọ khí phần của lửa mạnh, thân làm ngạ quỷ, thường bị thiêu đốt, vì nước có thể làm hại mình nên trải trăm ngàn kiếp không ăn không uống.
Chín phần tình một phần tưởng thì chìm xuống hỏa luân, thân đi vào ranh giới giao nhau của phong luân và hỏa luân, nhẹ thì sanh vào địa ngục hữu gián, nặng thì sanh vào địa ngục vô gián.
Thuần là tình thì chìm sâu vào địa ngục A tỳ. Nếu trong tâm chìm đắm ấy mà có sự hủy báng Đại thừa, phá cấm giới của Phật, cuồng vọng thuyết pháp tham cầu của tín thí, lạm nhận sự cung kính hoặc phạm ngũ nghịch thập trọng thì lại sanh vào địa ngục A tỳ trong mười phương.
Theo nghiệp ác đã tạo, tuy tự chuốc lấy quả báo, nhưng trong chúng đồng phận vẫn có chỗ sẵn.
………………………………….
Lúc chết thì những việc thiện ác trong một đời hiện ra, và tùy theo chất lượng đã sống như thế nào, tưởng và tình nặng nhẹ thế nào thì theo đó mà sanh ra nơi chỗ tương ứng. Nghiệp tưởng nhiều thì bay lên, nghiệp tình nhiều thì rớt xuống.
Thuần là tưởng thì bay lên, nếu tâm ấy gồm cả phước đức và trí huệ và nguyện thanh tịnh thì thấy các cõi Tịnh độ của mười phương chư Phật rồi tùy nguyện mà vãng sanh. Đây là cái chết tốt nhất.
Rồi cứ tùy theo nghiệp tưởng nghiệp tình mà xuống lần lần. Tưởng nhiều tình ít thì làm các loài thần hộ pháp. Tưởng và tình ngang nhau thì làm người.
Tình nhiều tưởng ít thì bắt đầu xuống ba đường xấu mà cuối cùng là các địa ngục.
Cho nên muốn tiến hóa lên đến đâu thì phải tạo nhân ngay lúc này. Cuộc đời trần gian rồi chẳng mang theo được một đồng xu, cái mang theo là nghiệp tưởng và nghiệp tình để sanh vào nơi khác.
Các địa ngục là cái có sẳn trước khi chúng ta ra đời, vì đó là cọng nghiệp của các chúng sanh tạo nghiệp địa ngục. Còn sanh về đó hay không là do biệt nghiệp tưởng tình của mỗi chúng sanh. Không ai có thể bắt chúng ta về đó nếu chúng ta không có nghiệp tương ứng với chỗ đó.
…………………………………….
A Nan, những điều như thế đều do nghiệp báo, các chúng sanh tự chiêu cảm lấy: tạo mười tập nhân thì chịu sáu giao báo.
Thế nào là mười tập nhân?
A Nan, một là tập khí dâm dục giao tiếp với nhau, phát sanh cọ xát lẫn nhau. Cọ xát không thôi, như vậy cho nên trong đó có lửa phát động ra, như người lấy hai tay cọ xát lẫn nhau thì cảm giác nóng hiện ra. Hai cái tập khí thiêu đốt nhau, nên mới có các thứ giường sắt, trụ đồng đốt nóng. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem việc hành dâm đồng gọi là lửa dục. Bồ tát đối với dâm dục như tránh hầm lửa.
Hai là, tập khí tham lam, so đo tính toán, hấp thụ lẫn nhau. Hấp thụ ôm giữ chẳng ngừng, như vậy nên trong ấy tích tụ hơi lạnh thành băng giá cứng, như người hút hơi gió vào thì cảm giác lạnh sanh ra, hai tập khí lấn át nhau, nên có những sự rét, rên rỉ, giá lạnh…. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem việc tham nhiều đồng gọi là nước tham. Bồ tát xem thấy tham như tránh biển độc.
Ba là, tập khí kiêu mạn lẫn lướt nhau phát sanh ỷ thế với nhau. Rong ruổi không thôi, như vậy cho nên có sự phóng túng, bôn ba, chứa sóng thành nước, như người miệng lưỡi tự chép làm cho nước bọt chảy ra. Hai cái tập khí chọi nhau nên có các việc sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, bắt uống nước đồng chảy…. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem ngã mạn đồng gọi là nước si mê. Bồ tát xem thấy kiêu mạn như tránh vực thẳm lớn.
Bốn là, tập khí nóng giận xung đột lẫn nhau, phát sanh chống đối lẫn nhau. Chống đối không thôi, tâm nổi nóng phát ra lửa, nấu cái khí thành kim loại, như vậy cho nên có núi đao, đòn sắt, cây gươm, bánh xe gươm, búa, rìu, thương, cưa. Ví như người bị oan ức thì sát khí nổi lên. Hai tập khí đánh nhau nên có các việc thiến, cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đập, đánh. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự nóng giận đồng gọi là dao gươm bén. Bồ tát xem thấy nóng giận như tránh chém giết.
Năm là, tập khí về giả dối, dụ gạt lẫn nhau, phát sanh sự lôi kéo lẫn nhau. Dẫn dụ chẳng ngừng, như vậy cho nên có dây, cây, thòng lọng, căng nọc, như nước thấm xuống ruộng thì cỏ cây sanh trưởng. Hai tập khí kéo nhau nên có các việc gông, cùm, xiềng xích, roi, gậy, qua, bổng. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự giả dối đồng gọi là sàm tặc. Bồ tát xem thấy gian dối sợ như sói, beo.
Sáu là, tập khí lừa gạt, dối phỉnh nhau, phát sinh phỉnh gạt lẫn nhau. Phỉnh gạt chẳng thôi, sanh tâm tạo những điều gian dối, như vậy cho nên có đất bụi, đại tiện, tiểu tiện, các thứ dơ nhớp chẳng sạch, như bụi theo gió, mỗi cái không thấy được nhau. Hai tập khí dìm hại nhau nên có việc chìm đắm, nhảy, ném, bay, rơi, trôi lăn. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự lừa gạt đồng gọi là cướp giết. Bồ tát xem thấy việc lường gạt như dẫm rắn độc.
Bảy là, tập khí thù oán hiềm khích lẫn nhau, phát sanh ôm lòng hờn giận. Như vậy cho nên có ném đá gạch, cũi nhốt, xe tù, bình đựng, đảy bọc, như người hiểm độc ôm ấp điều dữ.Hai tập khí nuốt nhau, nên có các việc ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, vứt, ôm. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự thù oán đồng gọi là quỷ Vi hại. Bồ tát xem thấy thù oán như uống rượu độc.
Tám là, tập khí tà kiến tranh cãi với nhau. Như thân kiến, giới cấm thủ và các nghiệp hiểu biết sai lầm, phát sanh chống trái lẫn nhau. Như vậy cho nên có quan lại nắm giữ giấy tờ, chứng thực, nhiều như người đi đường qua lại gặp nhau. Hai tập khí giao nhau nên có các việc khám hỏi, mưu mẹo, vặn hỏi, gạn xét, cứu tra soi rọi, biện bạch, hạch sách. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem ác kiến đồng gọi là hầm kiến chấp. Bồ tát đối với các thứ thiên chấp hư vọng như nhìn xuống hố độc.
Chín là, tập khí vu vạ, làm hại lẫn nhau, phát sanh phao vu, bài báng. Như vậy cho nên có núi khép, đá ép, cối xay, cày bừa, ví như kẻ sàm tặc áp bức vu oan cho người lành. Hai tập khí bài xích lẫn nhau, nên có việc áp giải, trói đánh, ép máu, tuốt thịt. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự vu vạ đồng gọi là cọp vu hại. Bồ tát xem thấy sự vu vạ như bị sấm sét.
Mười là, tập khí thưa kiện cãi vã lẫn nhau, phát sanh sự che đậy. Như thế nên có gương soi, đuốc chiếu, như giữa ban ngày không thể giấu bóng. Hai tập khí phô bày lẫn nhau nên có các việc bạn ác, kiếng soi nghiệp, hỏa châu, phơi bày nghiệp xưa để đối nghiệm. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự che đậy đồng gọi là giặc ngầm. Bồ tát xem thấy sự che đậy như đội núi cao lội trong biển lớn.
………………………………………
Mười tập nhân là mười nhân tích tập dần dần tạo thành quả báo. Tập nhân là tập khí tích tập nơi thân tâm, và khi chịu quả báo ở đâu thì tập khí ấy tương tác với tập khí cọng nghiệp của cõi ấy, “hai tập khí lấn át, đối chọi nhau…” mà thành những cảm thọ đáng sợ cõi địa ngục.
Mười tập khí này làm nhân xấu như dâm dục, tham lam, kiêu mạn… cho đến phao vu, thưa kiện, đều tạo ra nghiệp báo mà nặng thì phải trả quả báo ở địa ngục. Mỗi nhân tập khí đều sanh ra mỗi quả tập khí, thật sít sao. Mỗi hành động (nghiệp) của thân, khẩu, ý đều sanh ra những hậu quả tốt xấu tương ứng. Chánh báo (thân tâm) thế nào thì y báo (hoàn cảnh, điều xảy đến) y như vậy. Chẳng hạn tập khí thù oán thì có nắm, ném, đánh, bắn, vất ôm….
Chung quy, tạo nghiệp là do cái ta quá mạnh và những quan tướng tham, sân, si, kiêu mạn… của nó quá mạnh. Cho nên muốn không tạo nghiệp thì phải quán cho tiêu cái ta và quần thần của nó đi. Có thế mới mong có ngày thanh bình an vui được.
Không tác ý tạo nghiệp thì không có những thứ khổ đau không kể xiết ở địa ngục. Tất cả do tâm tạo, cho nên không có tập có dâm dục thì không có giường sắt, cột đồng; không có tập khí tham lam thì không có băng giá; không có tập khí kiêu mạn thì không có sông máu, biển độc…
Đã không có các thứ đáng sợ ở địa ngục mà lại có cảnh giới thanh tịnh an lành như ở các cõi Tịnh độ ngay tại đời này, tất cả đều do tâm, được chuyển hóa mà tạo ra.
………………………………..
Thế nào là sáu giao báo? A Nan tất cả chúng sanh do sáu thức tạo nghiệp nên chiêu cảm ác báo, đều từ sáu căn mà ra.
Thế nào là ác báo từ sáu căn mà ra?
Một là, giao báo về thấy chiêu dẫn quả báo dữ. Nghiệp giao báo về thấy là khi lâm chung, trước hết thấy lửa hừng cháy đầy cả mười phương, thần thức người chết bay rơi theo khói vào địa ngục vô gián, phát ra hai tướng: 1/ thấy sáng thì thấy khắp các vật dữ sanh sợ hãi ghê gớm. 2/ thấy tối thì im lặng không thấy gì sanh hoảng sợ vô cùng. Lửa thấy như vậy đốt cái nghe thì có thể làm thành vạc dầu sôi, đồng chảy. Đốt hơi thở thì có thể làm thành lửa đỏ, khói đen. Đốt cái nếm thì có thể thành hòn lửa, cơm sắt. Đốt cái xúc thì có thể làm tro nóng, lò than. Đốt tâm ý thì có thể sanh ra sao lửa rưới khắp làm rung động cõi hư không.
Hai là, ác báo về nghe chiêu cảm quả dữ. Nghiệp giao báo về nghe này là lúc lâm chung, trước hết thấy sóng ngập chìm trời đất, thần thức người chết sa xuống theo dòng nước vào địa ngục vô gián, phát sanh hai tướng: 1/ nghe rõ thì nghe tất cả các thứ ồn ào khiến tinh thần bấn loạn, 2/ điếc hẳn không nghe gì làm thần thức chìm đắm. Sóng nghe như thế rót vào cái nghe thì có thể làm thành trách móc, cật vấn. Rót vào cái thấy thì làm sấm, tiếng trống, hơi độc. Rót vào hơi thở thì làm thành mưa thành mù, rưới các sâu độc đầy khắp thân thể. Rót vào vị thì làm mũ máu, các thứ dơ bẩn. Rót vào xúc thì làm thành súc vật, quỷ, phân, nước tiểu. Rót vào tâm ý thì làm thành chớp, mưa đá, đập nát tâm thức.
Ba là, ác báo về ngửi chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp giao báo về ngửi là khi lâm chung, trước hết thấy hơi độc đầy dẫy xa gần, thần thức người chết từ đất vọt lên, vào ngục vô gián, phát sanh hai tướng: 1/ ngửi thông thì bị các hơi độc xông làm tâm rối loạn, 2/ mũi nghẹt, hơi không thông nằm chết giấc trên đất. Cái ngửi như thế xông vào hơi thở thì có thể làm thông làm ngạt. Xông vào cái thấy thì thành lửa, thành đuốc. Xông vào cái nghe thì làm chìm ngập, làm chết đuối, làm nước lớn, làm nước sôi. Xông vào cái nếm thì làm sình, thối. Xông vào cái xúc thì làm xấu, nát, làm núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt ăn hút không lường. Xông vào ý thì làm tro, chướng khí, làm gạch, cát, đá bay đánh nát thân thể.
Bốn là, ác báo về nếm chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp giao báo về nếm này là khi lâm chung, trước hết thấy lưới sắt nung đỏ che khắp thế giới, thần thức người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo ngược đầu xuống vào ngục vô gián, phát sanh hai tướng: 1/ nuốt vào thì thành giá lạnh làm nứt nẻ thân thể; 2/ mửa ra thì thành lửa hừng thiêu rụi xương tủy. Nếm biết như vậy qua cái nếm thì có thể làm nhận làm chịu. Qua cái thấy thì có thể làm ra các thứ kim thạch đốt cháy. Qua cái nghe thì làm binh khí sắc bén. Qua hơi thở thì làm lồng sắt lớn che hết cõi nước. Qua xúc thì có thể làm thành cung, tên, nỏ, bắn. Qua ý thì làm sắt nóng bay từ trên không rưới xuống.
Năm là, ác báo về xúc chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp giao báo về xúc này là khi lâm chung, trước hết thấy núi lớn bốn mặt áp lại không còn lối ra, thần thức người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp sói, sư tử, lính ngục đầu trâu, la sát đầu ngựa tay cầm giáo chỉa lùa vào cửa thành hướng về ngục vô gián, phát sanh hai tướng: 1/ hợp xúc thì núi ép kẹp, xương thịt nát ra máu, 2/ lìa xúc thì đao kiếm chạm vào mình, tim gan cắt xẻ. Xúc hợp như vậy qua cái xúc thì có thể làm ra đường, quán, nha sảnh, tòa án. Qua cái thấy thì làm đốt, nung. Qua cái nghe thì làm đập, đánh, đâm bắn. Qua hơi thở thì làm ra trùm, đẩy, tra, trói. Qua cái nếm thì làm kềm, cày, chém, chặt. Qua ý thì làm rơi, bay, nấu, nướng.
Sáu là ác báo về ý chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp giao báo về ý này là khi lâm chung, trước hết thảy gió dữ thổi nát cõi nước, thần thức người chết bị thổi lên không, xoay rơi theo gió, sa vào ngục vô gián, phát sanh hai tướng: 1/ không biết, hoàn toàn mê thì hoang mang bỏ chạy không thôi, 2/ chẳng mê, tỉnh biết thì khổ, bị thiêu đốt không cùng, đau đớn không chịu nổi. Ý lầm lạc như vậy kết vào ý nghĩ thì có thể làm thành nơi chốn. Kết vào cái thấy thì làm gương soi, làm chứng cớ. Kết vào cái nghe thì làm ra núi lớn xáp vào nhau, làm ra giá, sương, đất, mù. Kết vào hơi thở thì làm ra cái xe bốc lửa, thuyền lửa, rọ lửa. Kết vào cái nếm thì làm ra kêu la to, làm ăn năn, khóc lóc. Kết vào cái xúc thì làm lớn, nhỏ, khiến trong một ngày vạn lần sống vạn lần chết, làm nghiêng làm ngửa.
A Nan, ấy gọi là mười nhân vào sáu quả báo địa ngục. Nhân quả ấy đều do cái mê vọng của chúng sanh tạo ra.
Nếu các chúng sanh tạo đủ các nghiệp ác thì vào địa ngục A tỳ, chịu vô lượng khổ, trải qua vô lượng kiếp. Nếu một căn tạo và nghiệp tạo ra gồm cả căn lẫn cảnh, thì người ấy vào tám địa ngục vô gián. Cả thân, khẩu, ý làm việc sát, đạo, dâm thì người ấy vào mười tám địa ngục. Chỉ có một căn riêng phạm một nghiệp, người ấy vào một trăm lẻ tám địa ngục.
Đó là do chúng sanh riêng làm riêng tạo nên ở trong thế giới vào chỗ đồng phận, đều do vọng tưởng phát sanh, chẳng phải vốn tự có.
……………………………………….
Giao báo là quả báo từ tập khí sáu căn tạo ra và tương tác với tập khí các căn khác. Làm thì một căn là chính nhưng các căn kia cũng có mặt nên khi chịu nghiệp báo thì cả sáu căn kia cũng đều chịu.
Khi một căn đã gây nghiệp nhiều thì chiêu dẫn quả báo thích hợp với căn ấy. Chẳng hạn về sự ngửi của mũi thì ngửi thấy hơi độc. Ngửi được thì bị các hơi độc xông, ngửi không được thì ngột thở. Nghiệp báo này còn đi vào tác động đến hơi thở, vào cái thấy, vào cái nghe, vào cái nếm, vào cái xúc và vào cái ý, tạo thành những điều ghê sợ không thể kể hết cho thần thức người chết.
Khi chết thì các đại tan rả, hệ thống khí kinh mạch cũng tan rả rút về thần thức, chịu tác động hoàn toàn của tập khí nghiệp, tạo ra những xáo trộn ghê gớm. Những thay đổi ấy qua một tâm thức thanh tịnh nhẹ nghiệp thì dễ dàng vượt qua, tưởng nhiều thì lên cao, tái sanh vào chỗ tốt. Còn với một tâm thức bất tịnh nặng nghiệp thì đây là một đoạn đường biến hóa đầy kinh sợ của tâm thức, để cuối cùng rớt vào, tái sanh vào địa ngục.
Tập khí của căn mắt là ham thấy sắc, ham thấy hừng hực như lửa, nên bản chất tập khí thấy là lửa. Giao báo về thấy khi chết là thấy lửa, lửa này đốt qua các căn kia thành đủ thứ ghê sợ như trong một ác mộng. Nghiệp càng nặng thì cơn ác mộng này càng dữ dội và càng kéo dài.
Chúng ta phải tiêu trừ tập khí thấy lúc còn sống, bằng cách đưa những tập khí về thấy của con mắt về tịnh hóa trong tánh thấy. Còn khi đã lọt vào trung ấm mà thấy lửa đốt, hãy xoay cái thấy lửa trở về tánh thấy. Lửa sẽ trở thành như huyễn và an trụ trong tánh thấy thì được giải thoát.
Nghiệp báo về nghe là lúc chết trải nghiệm về sóng và tiếng sóng. Khi đã lọt vào cảnh giới trung ấm đáng sợ này, hãy biết mọi âm thanh là như huyễn như mộng và xoay về tánh nghe bèn được giải thoát.
Các giao báo về ngửi, nếm, xúc, và ý đều cũng làm tương tự: thấy những biến hóa của nghiệp là như huyễn và đưa chúng trở lại tánh giác vô sanh.
Khi không thể làm như vậy, thì hãy niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm, vì ngài cứu khỏi nạn lửa, nước, đất, gió… như đã nói ở phần nhĩ căn viên thông của ngài thì sẽ được giải thoát.
Nghiệp báo là do sáu thức tạo ra. Sáu thức mê vọng, không thanh tịnh thì tạo nghiệp, nghiệp ấy chính là tập khí, nhưng nghiệp ấy xét cho cùng cũng là mê vọng, như một giấc mộng, như thành Càn thát bà, thấy chỉ là vọng thấy, nghe chỉ là vọng nghe. Cho nên khi sống mà tu như huyễn như mộng thì việc trong trung ấm dù tốt đi nữa cũng chỉ là như huyễn như mộng và ngay lúc ấy tỉnh dậy mà giải thoát trong tánh giác thường trụ.
Nghiệp và quả báo của nó phải sanh từ trên và trong tánh giác. Chính vì quá sợ khi lọt vào cảnh trung ấm mà nỗ lực giải thoát, nỗ lực nhớ lại rằng tất cả đang xảy ra trong Như Lai tạng nên như huyễn như mộng và chính mình là Như Lai tạng thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới.
Để các căn khỏi tạo nghiệp, trái lại, sáu căn hưởng thọ được cảnh giới Tịnh độ (“Tùy tâm ấy tịnh, thì cõi Phật tịnh”-Kinh Duy Ma Cật), phải xoay sáu căn trở lại nguồn tánh khiến chúng trở thành thanh tịnh. Mê vọng tạo nghiệp hữu lậu khổ đau là sáu căn, mà tạo nghiệp vô lậu thanh tịnh cũng là sáu căn. Mở nút hay cột chặt thêm nút, đây là cơ hội cho cuộc đời đang sống ở trần gian này.
…………………………………….
Lại nữa A Nan, nếu các chúng sanh ấy chê bai phá hoại luật nghi, phạm giới Bồ tát, hủy báng Niết bàn của Phật và các tạp nghiệp khác thì sau nhiều kiếp bị đốt cháy đền hết tội rồi thì chịu các hình quỷ.
Nếu bản nhân do tham vật mà làm ra tội thì khi đền tội xong, gặp vật thành hình, gọi là Quái quỷ. Do tham sắc mà làm ra tội thì khi đền tội xong, gặp gió thành hình, gọi là Bạt quỷ. Do tham dối trá mà làm ra tội thì khi đền tội xong, gặp gia súc thành hình, gọi là Mị quỷ. Do tham hận thù mà làm ra tội thì khi đền tội xong gặp con trùng thành hình, gọi là Cổ độc quỷ. Do tham ghi nhớ chẳng bỏ mà làm ra tội thì khi đền tội xong, gặp sự suy tàn thành hình, gọi là Lệ quỷ. Do tham ngạo mạn mà làm ra tội thì khi đền tội xong, gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ. Do tham lừa gạt mà làm ra tội thì khi đền tội xong, gặp u ẩn thành hình, gọi là Áp quỷ. Do tham chỉ trích mà làm ra tội thì khi đền tội xong, gặp tinh hoa thành hình, gọi là Võng lượng quỷ. Do tham vu vạ mà làm ra tội thì khi đền tội xong, gặp bóng sáng thành hình, gọi là Dịch sử quỷ. Do tham bè đảng mà làm ra tội thì khi đền tội xong, gặp con người thành hình, gọi là Truyền tống quỷ.
A Nan, những người ấy đều do thuần tình mà đọa lạc, khi lửa nghiệp đốt xong thì lên làm quỷ. Các loài như thế đều do nghiệp tự vọng tưởng chiêu dẫn ra. Nếu ngộ được Bồ đề thì trong tánh diệu viên minh các thứ ấy vốn không có.
…………………………………..
Những người chỉ có tình không có tưởng thì khi đền tội xong thì tái sanh làm mười loài quỷ, chưa được làm người để tiến tu. Tất cả đều do nghiệp tự vọng tưởng thành tập khí mà chiêu dẫn ra. Ngộ được Bồ đề, tức tánh giác thì các cảnh giới nghiệp báo ấy tiêu tan, vì trong tánh giác các thứ ấy vốn không có.
Cho nên để phòng ngừa bệnh khổ làm quỷ, thì ngay khi còn sống lúc này, hãy tin tưởng và tinh tấn huân tu tánh nghe, trở về nguồn tánh, nơi đó không còn ba cõi sanh tử.
…………………………………….
Lại nữa, A Nan, khi nghiệp quỷ đã hết thì hai thứ tình và tưởng đều thành không, mới ở thế gian cùng với những người mình đã mắc nợ cũ oán đối gặp nhau, thân làm súc sanh để trả nợ trước.
Loài quái quỷ theo vật thì khi vật tiêu, quả báo hết, sanh nơi thế gian phần nhiều làm chim cưu. Loài bạt quỷ thì khi gió tiêu tan, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài báo điềm kỳ dị. Loài mỵ quỷ thì khi súc chết báo hết, sanh nơi thế gian phần nhiều làm chồn cáo. Loài cổ quỷ thì khi sâu diệt báo hết, sanh nơi thế gian phần nhiều làm loài có độc. Loài lệ quỷ thì khi sự suy dứt, báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun. Ngạ quỷ thì khi khí tiêu, báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài ăn thịt. Loài áp quỷ thì khi u ẩn tiêu, báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cung cấp đồ mặc. Loài võng lượng quỷ thì khi tinh hoa tiêu, báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim theo mùa. Loài dịch sử quỷ thì khi bóng sáng diệt, báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài báo điềm lành. Loài truyền tống quỷ thì khi người chết, báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài thuần hóa.
A Nan, các loài ấy đều do lửa nghiệp đốt xong, sanh làm súc vật để trả nợ cũ. Hết thảy cũng đều tự hư vọng làm ra nghiệp chiêu dẫn mà có. Nếu ngộ Bồ đề thì các vọng duyên ấy vốn không có chỗ.
………………………………………
Từ hết báo nghiệp địa ngục thì lên làm quỷ, hết nghiệp quỷ thì lên làm súc sanh, hết nghiệp súc sanh mới lên làm người. Vì ở địa ngục, loài quỷ và loài súc sanh làm gì có cơ hội học pháp để đi tắt lên làm người, phải chờ cho nghiệp báo hết. Thế mới biết nghiệp vọng tưởng sanh tình sanh tưởng kiên cố khó phá chừng nào.
Khi thấy tiến trình đi lên gian nan như vậy, người tu hành vừa thấy lo cho mình, vừa thương xót cho chúng sanh. Người tu đạo Bồ tát là một chiến sĩ chống lại tất cả những mê vọng làm chúng sanh rơi xuống thấp. Nếu không có một động lực như vậy thì khó đảm đương được Bồ tát hạnh.
Các vọng duyên nghiệp và nghiệp báo, dù có đã lỡ lầm làm ra, thì luôn luôn hiện hữu trên tánh giác. Cho nên dù ở bất cứ đâu, thời gian nào, hoàn cảnh nào cũng có thể giải thoát bằng cách xoay lại để kinh nghiệm tánh giác xưa nay chưa từng rời lìa khỏi hiện hữu do nghiệp báo của mình.
Tốt nhất là khi còn làm người nỗ lực tương ưng với Như Lai tạng. Mình là cái “thanh tịnh bản nhiên” thì có nghiệp xấu nào dính bám vào được, mình là cái “toàn khắp pháp giới” thì có gì giam nhốt được.
…………………………………
Như lời ông nói, nhóm Bảo Liên Hương, vua Lưu Ly, và Tỳ kheo Thiện Tinh đều tự mình phát tạo nghiệp dữ như thế. Nghiệp ấy không phải từ trời rơi xuống, cũng chẳng phải từ đất chui lên, cũng chẳng phải ai đem đến, mà chính là do họ tự vọng tưởng mời tới rồi tự lãnh thọ. Trong tâm Bồ đề chúng đều là vọng tưởng hư huyễn ngưng kết.
………………………………..
Nghiệp là do tự vọng tưởng mời tới rồi tự lảnh thọ quả báo. Chúng đều là vọng tưởng hư huyễn thành tập khí ngưng kết mà thành.
Cho nên muốn phá hủy chúng phải phá hủy từ cái nhân vọng tưởng của chúng, không cho chúng ngưng kết.
Kinh này đoạn đầu đã chỉ rõ làm sao phá hủy từ cái nhân vọng tưởng của nghiệp và nghiệp báo. Như Bồ tát Quán Thế Âm, “xoay nghe, nghe tự tánh” thì không những hết nghiệp mà còn thành Đại Bồ tát mà độ chúng sanh.
……………………………….
Lại nữa, A Nan, các súc sanh ấy đền trả nợ trước mà nếu trong lúc trả nợ, trả quá nợ cũ thì các chúng sanh ấy trở lại làm người đòi lại chỗ dư. Nếu người kia có sức lực lại có phước đức, thì ở trong loài người không bỏ thân người mà hoàn lại chỗ thừa ấy, còn nếu không có sức lực phước đức thì phải làm súc sanh để đền trả lại chỗ thừa.
A Nan, phải biết, nếu dùng tiền của hoặc sức người thì đền đủ là xong, còn như trong ấy có giết thân mạng hoặc ăn thịt, như vậy trải qua nhiều kiếp ăn nhau giết nhau thì giống như bánh xe quay hoài, chỗ cao thấp thay đổi nhau liên hồi không nghỉ. Trừ pháp Xa ma tha hoặc gặp Phật ra đời chứ chẳng thể nào thôi nghỉ được.
…………………………………
Cuộc đời thường tình chỉ là vay trả, trả vay. Có nợ người nào thì phải trả, nhưng người ấy do phiền não hận thù mà đòi quá số phải trả thì lại mắc nợ người kia. Vòng sanh tử cứ quay hoài, chỗ thấp cao thay đổi nhau, đền bù cho nhau không ngừng nghỉ.
Người Bồ tát thấy như vậy bèn đem Phật pháp đã trải nghiệm mà cứu đời, không cho đời tạo nghiệp xấu để khỏi phải vay trả, trả vay khổ đau không dứt.
…………………………………
Nay ông nên biết, loài chim cưu kia, trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng ngoan cố. Loài cửu trưng kia trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng quái dị. Loài chồn kia trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng ngu dại. Những loài có độc kia trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng nham hiểm. Những loài giun kia trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng hèn nhát. Những loài bị ăn thịt kia trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng nhu nhược. Những loài cung cấp đồ mặc kia trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng lao nhọc. Những loài chim mùa kia trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng văn hoa. Những loài đem điềm lành kia trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng thông minh. Những loài thuần hóa kia trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hạng thông đạt.
A Nan, các chúng sanh ấy trả hết nợ cũ, trở lại hình của cõi người đều do từ vô thủy đến nay điên đảo mà gây nghiệp, sanh nhau giết nhau, chẳng gặp Như Lai, chẳng nghe chánh pháp, ở trong trần lao cứ thế mà luân chuyển, thật đáng thương xót.
……………………………….
Đây là tổng kết về mười nhân, sáu giao báo, đều do điên đảo hư vọng sanh ra để rồi luân chuyển theo nghiệp hư vọng.
Một trong những lối thoát là pháp Xa ma tha, thấy như huyễn như mộng thì bèn tỉnh giấc không còn dính dáng đến sanh tử mà tạo nghiệp. Bồ tát tu pháp Xa ma tha như huyễn như mộng thì cứu mình cứu người. Xa ma tha là trí huệ, thấy chúng sanh điên đảo đáng thương xót là đại bi.
………………………………..
A Nan, lại có chúng sanh từ loài người, không nương vào chánh giác tu tam ma đề, lại riêng tu theo vọng niệm, tồn giữ tưởng, kiên cố hình hài, đi vào rừng núi chỗ người ta chẳng đến, thành mười loại tiên.
A Nan, các chúng sanh kia kiên cố dùng đồ bổ không ngừng nghỉ, khi đạo thực phẩm được thành, gọi là địa hành tiên.
Kiên cố dùng cỏ cây không ngừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành, gọi là Du hành tiên.
Kiên cố làm những động tác không ngừng nghỉ, khi đạo khí tinh được thành, gọi là Không hành tiên.
Kiên cố luyện nước bọt không ngừng nghỉ, khi nhuận đức được thành, gọi là Thiên hành tiên.
Kiên cố hấp thụ tinh hoa không ngừng nghỉ, khi hấp thụ được thành, gọi là Thông hành tiên.
Kiên cố làm chú thuật không ngừng nghỉ, khi thuật pháp được thành tựu, gọi là Đạo hành tiên.
Kiên cố chuyên chú tâm niệm không ngừng nghỉ, khi chuyên niệm được thành tựu, gọi là Chiếu hành tiên.
Kiên cố về thủy hỏa giao cấu không ngừng nghỉ, khi cảm ứng được thành tựu, gọi là Tinh hành tiên.
Kiên cố tập luyện biến hóa không ngừng nghỉ, khi hiểu biết được thành tựu, gọi là Tuyệt hành tiên.
A Nan, người này ở trong loài người mà luyện tâm, không tu theo chánh giác, chỉ riêng được sanh lý, thọ ngàn vạn năm, ở ẩn trong núi sâu hay trên hoang đảo giữa đại dương, dứt tuyệt với cảnh người. Đó cũng là vọng tưởng lưu chuyển của luân hồi. Không tu tam muội nên khi quả báo hết thì trở lại lạc vào trong sáu nẻo.
…………………………………
Tu hành là kiên cố nhắm đến cứu cánh bằng cách kiên cố vào phương tiện. Cứu cánh của mười loài tiên là một cuộc sống cao cấp, thanh tịnh, có những quyền năng, nhưng không thể thoát khỏi trái đất này. Phương tiện là những vật vô thường của cõi này: cỏ cây, kim thạch, nước bọt, chú thuật, biến hóa…. Dựa trên cứu cánh và phương tiện hữu hạn, vô thường, nên khi quả báo hết thì trở lại lạc vào sáu nẻo, như ở trước Kinh nói, nấu cát không thể thành cơm.
Người tu đạo Phật thì cứu cánh là giải thoát và giác ngộ, và phương tiện là tam muội kim cương như huyễn, đưa cái dụng của sáu căn về nguồn tánh vô sanh. Còn nếu nhân địa là vọng tưởng thì kết quả chỉ nằm trong tưởng mà thôi.
…………………………………
A Nan, các người thế gian chẳng cầu cái thường trụ, chưa thể lìa bỏ được ân ái, thê thiếp, nhưng tâm không buông lung trong tà dâm. Do tâm lắng trong sanh ra sáng suốt, sau khi mạng chung ở gần mặt trời mặt trăng. Một hạng như vậy gọi là Tứ thiên vương thiên.
Đối với vợ nhà, dâm ái ít ỏi, trong lúc tịnh cư chưa được toàn vị. Sau khi mạng chung, vượt sức sáng mặt trời mặt trăng, ở trên đỉnh của nhân gian. Một hạng như vậy gọi là Đao lợi thiên (Tam thập tam thiên).
Gặp cảnh dâm dục tạm theo, đã qua rồi thì không nghĩ nhớ, ở trong nhân gian động ít tĩnh nhiều. Sau khi mạng chung, an trụ sáng rỡ ở trong hư không, ánh sáng mặt trời mặt trăng soi chiếu chẳng tới. Những người như vậy tự có ánh sáng. Một hạng như thế, gọi là Tu diệm ma thiên.
Luôn luôn yên tĩnh, nhưng khi có cảm xúc đến chưa thể chống lại được. Sau khi mạng chung bay lên chỗ tinh vi, không giao tiếp với cảnh nhân thiên cõi dưới, cho đến thời kiếp hoại, ba tai họa cũng không đến được. Một hạng như vậy gọi là Đâu suất đà thiên.
Chính mình không có lòng dâm, đáp ứng với người khác mà làm, trong lúc phô diễn vô vị như ăn sáp. Sau khi mạng chung, sanh lên cảnh biến hóa. Một hạng như vậy gọi là Lạc biến hóa thiên.
Không có tâm thế gian, chỉ đồng như thế gian mà hành sự, trong khi làm việc ấy suốt thông siêu thoát. Sau khi mạng chung, vượt trên cảnh biến hóa và không biến hóa. Một hạng như vậy gọi là Tha hóa tự tại thiên.
A Nan, sáu cõi trời như vậy, hình thức tuy ra khỏi động nhưng dấu vết tâm còn dính mắc. Từ các cõi ấy trở xuống gọi là Dục giới.
………………………………….
Chư thiên (deva) là những chúng sanh có ánh sáng. Càng ít dục thì càng lên cao, năng lực càng mạnh. Trong sáu cõi trời Dục giới ấy có cõi Đâu suất, là nơi Bồ tát Nhất sanh bổ xứ ở, trước kia là đức Thích Ca, hiện nay là đức Di Lặc.
Tại sao các vị Nhất sanh bổ xứ ở cõi thứ tư trong sáu cõi Dục giới mà không ở những cõi cao hơn? Có lẽ vì ở Đâu suất còn có chút ít dục thì mới cùng một nghiệp với trái đất này.
Ở trái đất thấp nhất trong các cõi dục này, nếu biết “trong khi làm việc ấy suốt thông siêu thoát” thì thân tâm nhẹ nhàng, tỏa sáng như những cõi trời. Rồi dùng thân tâm nhẹ nhàng tỏa sáng ấy để thực hành Phật giáo thì hẳn sẽ đi được trên con đường giải thoát, giác ngộ.
Hết Quyển 8
SHARE:
Ban biên tập website Thiện Tri Thức chúng tôi chân thành cám ơn các trang mạng, các tác giả cùng những cộng tác viên , các bạn đọc đã cho phép chúng tôi trích đăng và gửi bài tới trang nhà chúng tôi. Những ý kiến đóng góp và bài viết xin gửi về email [email protected].
Mong mọi sự tốt lành!
© Bản quyền 2021 THIỆN TRI THỨC | Thiết kế bởi TIGONSYS