QUYỂN HAI:

SHARE:

QUYỂN HAI

5.CHỈ TÁNH THẤY  KHÔNG SANH DIỆT.

Bấy giờ A Nan và đại chúng nghe Phật chỉ dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thủy đến nay đánh mất bản tâm, vọng nhận bóng dáng duyên trần phân biệt. Ngày nay khai ngộ, như bé thơ mất sữa bỗng gặp mẹ hiền. Ông chắp tay lễ Phật, mong được nghe Như Lai chỉ bày cái chân vọng, thật hư ở nơi thân tâm, ở ngay hiện tiền phát minh ra hai cái sanh diệt và chẳng sanh diệt.

………………………………

Thật thấy được cái gì là chân tâm không phân biệt, không sanh diệt, cái gì là bóng dáng duyên trần phân biệt và sanh diệt nơi thân tâm mình, đó là ngộ. Rồi sống cái không phân biệt, không sanh diệt ấy cho thật nhuần nhuyễn, đó là nhập. Cho tới khi vô sanh pháp nhẫn là không còn có một mảy may cái gì sanh, không có một mảy may cái gì diệt, đó là “sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền”, tức là giải thoát rốt ráo.

…………………………………

Khi ấy vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật: Trước kia con chưa được Phật chỉ dạy, con gặp nhóm Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử đều nói thân này sau khi chết sẽ đoạn diệt, tiêu mất, gọi là Niết bàn.

Con nay tuy được gặp Phật nhưng vẫn còn hồ nghi. Làm sao rõ ràng chứng biết chỗ chẳng sanh chẳng diệt nơi tâm này. Nay những hàng hữu lậu trong đại chúng đều mong được nghe điều ấy.

………………………………….

Đây là vấn đề căn bản của mỗi người: chết là hết hay còn, và còn thì còn cái gì. Hiện giờ cái chẳng sanh chẳng diệt có nơi thân tâm này hay không. Nếu không có thì tu làm gì, có ích gì cuộc đời này?

…………………………………..

Phật bảo: Đại vương, thân ông hiện đây, nay ta hỏi ông. Thân xác thịt này của ông có giống như kim cương thường trụ bất hoại hay là biến hoại?

Bạch Thế Tôn, thân con hiện giờ rốt cuộc cũng thay đổi và hoại diệt.

Phật bảo: Đại vương, ông chưa từng diệt, làm sao biết là phải bị diệt?

Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường biến hoại của con tuy chưa diệt, nhưng con xem hiện giờ niệm niệm dời đổi mãi mãi chẳng ngừng, như lửa đốt thành tro, dần dần tiêu mất. Tiêu mất chẳng dừng nên con biết chắc thân này rồi sẽ diệt mất.

Phật nói: Đại vương, đúng như vậy. Nay ông tuổi đã già yếu, dung mạo so với lúc còn bé thì thế nào?

Bạch Thế Tôn, hồi con còn bé nhỏ, da dẻ mịn màng, đến lúc trưởng thành, khí huyết đầy đủ, nay thì tuổi già, hình sắc già yếu ốm gầy, tinh thần không còn sáng suốt, tóc bạc mặt nhăn, sống chẳng còn lâu, so sánh thế nào được với thời trẻ mạnh?

Phật bảo: Đại vương, thân thể của ông đâu có hư hao ngay?

Vua thưa: Bạch Thế Tôn, sự biến hóa âm thầm dời đổi nên con chẳng hay biết. Lạnh nóng đổi dời lần lần đến ngày nay. Vì sao thế? Con khi hai mươi tuổi tuy còn trẻ nhưng sắc mặt đã già hơn lúc mười tuổi. Khi ba mươi tuổi lại suy sút hơn hồi hai mươi. Đến nay sáu mươi hai, so với lúc năm mươi thì khi ấy còn cường tráng hơn.

Bạch Thế Tôn, con thấy nó âm thầm thay đổi như thế, tuy sự già nua này thay đổi trong mỗi kỳ mười năm. Nếu con suy nghĩ kỹ hơn nữa, chẳng những nó thay đổi trong khoảng một kỳ, hai kỳ mà thật ra thay đổi từng năm. Lại đâu phải mỗi năm mỗi thay đổi mà là mỗi tháng mỗi thay đổi, không những mỗi tháng mỗi thay đổi mà là mỗi ngày mỗi thay đổi. Suy cùng xét kỹ thì nó thay đổi trong từng sát na, trong khoảng mỗi niệm, không thể dừng trụ. Thế nên con biết thân này trọn phải chịu biến đổi và hoại diệt.

……………………………..

 Tất cả thế gian là tài liệu, dữ liệu để nghiên cứu tìm ra cái xuất thế gian. Sắc là tài liệu, dữ liệu để nghiên cứu tìm ra tánh Không, bởi vì “sắc tức là Không”.

Một sát na có ít nhất là 60 lần sanh diệt.

Sự biến đổi và hoại diệt của thân được quán sát ở mức độ vi tế là sát na hay niệm, suy cùng xét kỹ sẽ tìm ra cái không biến đổi, không hoại diệt, “giống như kim cương”. Bởi vì mọi sự “thay đổi trong từng sát na”, thì ngay nơi sự thay đổi nhỏ nhiệm ấy phải có cái không gian bất biến cho sự thay đổi. Đó là Pháp thân tánh Không. Đi sâu vào khoảng giữa hai sát na, khoảng giữa hai niệm, đó chính là tánh Không. Rồi khi xét kỹ một đơn vị là sát na hay niệm, phân tích, chia nhỏ ra cho đến tận cùng thì thấy ra bản chất vô tự tánh của nó, bèn thấy ra tánh Không của nó. Cái thấy ấy phải trực tiếp, không qua khái niệm. Đây là cái thấy trực tiếp tánh Không và sanh tử bắt đầu sụp đỗ với cái thấy ấy.

………………………………..

Phật bảo: Đại vương, ông thấy sự biến hóa thay đổi không ngừng, nên ngộ biết thân mình hoại diệt. Ngay khi biến diệt ấy, ông có biết trong thân có cái gì không biến diệt chăng?

Vua Ba Tư Nặc chấp tay bạch Phật: Con thật không biết.

……………………………………

Cái đang thấy các sự tướng lay động biến diệt, cái ấy chẳng lay động biến diệt. Cái đang thấy các tướng lăng xăng, cái ấy chẳng lăng xăng. Có cái biến diệt nơi thân thì ngay khi ấy phải có cái không biến diệt như là không gian, môi trường cho sự biến diệt.

Cái ấy đang có tại đây, bây giờ, trùm khắp ba thời quá khứ, hiện tại, tương lai, trùm khắp tất cả mười phương thế giới.

……………………….

Phật bảo: Nay ta chỉ cho ông tánh không sanh không diệt.

Đại vương, lúc ông mấy tuổi thì thấy nước sông Hằng?

Vua thưa: Khi con lên ba, mẹ dẫn con đi lễ thần Kỳ Bà (thần Trường Thọ), có đi qua sông này, khi ấy con biết đó là nước sông Hằng.

Phật bảo: Như lời ông nói, lúc hai mươi tuổi thấy mình già hơn mười tuổi, cho đến sáu mươi tuổi, năm tháng ngày giờ, niệm niệm dời đổi. Vậy khi ông ba tuổi, thấy nước sông này, rồi đến khi mười ba tuổi thì thấy nước ấy thế nào?

Vua thưa: vẫn như khi ba tuổi rõ ràng không khác, và đến nay tuổi đã sáu mươi hai, cũng vẫn không khác.

Phật bảo: Nay ông tự buồn tóc bạc mặt nhăn, mặt ông nhất định phải nhăn hơn hồi trẻ. Vậy cái thấy sông Hằng hiện giờ của ông so với cái thấy sông Hằng của ông lúc nhỏ có già có trẻ gì không?

Vua thưa: Bạch Thế Tôn, không.

Phật bảo: Đại vương, mặt ông tuy nhăn mà tánh của cái thấy (kiến tinh tánh) chưa hề bị nhăn. Cái bị nhăn thì biến đổi, còn cái không bị nhăn thì chẳng biến đổi.

Cái biến đồi thì phải chịu hoại diệt, còn cái không biến đổi kia vốn không có sanh diệt làm sao trong ấy có sanh tử cho ông thọ nhận, mà ông còn dẫn lời của nhóm Mạt Già Lê nói rằng ‘thân này chết rồi thì diệt mất hẳn’.

Vua nghe lời ấy, tin biết thân này về sau, bỏ đời này thì qua đời khác, nên cùng với đại chúng vui mừng, được sự chưa từng có.

……………………….

Đây là tiến trình khai thị của Đức Phật. Vua Ba Tư Nặc tư duy, quán tưởng theo tiến trình đó, để cuối cùng “tin biết tánh không sanh diệt”đang ở nơi chính mình, “được sự chưa từng có”. 

Tiến trình ấy là phân biệt được cái gì động, cái gì bất động; cái gì biến diệt, cái gì không biến diệt; cái gì có sanh có tử, cái gì không có sanh không có tử. Tiến trình này chỉ chấm dứt khi hành giả rơi vào tánh Không bất động, rơi vào trí vô phân biệt, trí căn bản, trí vô sư, tìm ra sự sống bất tử, mới nhảy nhót vui mừng, từ nay hết chết: “làm sao trong ấy có sanh tử cho ông thọ nhận?”

Quan sát cho kỹ, tất cả đều vô thường, đều đang sanh diệt, vậy thì phải có không gian, môi trường không sanh không diệt cho các thứ sanh diệt ấy. Các thứ sanh diệt ở khắp nơi cho nên không gian không sanh không diệt ấy cũng ở khắp cả.

……………………………

6.CHỈ CHỖ ĐIÊN ĐẢO

A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật, chắp tay quỳ bạch Phật: Bạch Thế Tôn, nếu cái thấy nghe này thật không sanh diệt thì tại sao Thế Tôn gọi chúng con bỏ quên chân tánh, làm việc điên đảo? Cúi mong Thế Tôn khởi lòng từ bi rửa sạch trần cấu cho chúng con.

Liền khi ấy Như Lai buông cánh tay sắc vàng, ngón tay chỉ xuống, bảo A Nan rằng: Nay ông thấy cánh tay với ấn của ta là thuận (chánh) hay ngược (đảo)?
A Nan thưa: Chúng sanh trong thế gian cho đó là ngược, còn con chẳng biết cái nào là thuận, cái nào là ngược.
Phật bảo A Nan: Nếu người thế gian cho đây là ngược, thì họ cho thế nào là thuận?
A Nan thưa: Khi Như Lai đưa cánh tay với ấn lên, ngón tay chỉ lên không, thì gọi là thuận.
Phật liền đưa cánh tay lên và bảo A Nan: Điên đảo là như thế. Chỉ là đầu đuôi thay đổi lẫn nhau, mà người thế gian tất cả đều nhìn thấy như vậy.

Nay lấy cái thân ông và Pháp thân thanh tịnh của chư Như Lai so sánh để phát minh thì thân Như Lai gọi là chánh biến tri, còn thân của các ông gọi là tánh điên đảo. Ông nên xét kỹ thân ông, thân Phật, cái gọi là điên đảo ấy do ở chỗ nào mà gọi là điên đảo?
Khi ấy A Nan và cả đại chúng sửng sốt nhìn Phật không nháy mắt, không biết nơi thân tâm chỗ nào điên đảo.

…………………………

Đức Phật đưa ngón tay chỉ xuống đất rồi chỉ lên trời để cho đại chúng thấy sự điên đảo. Cũng một cánh tay chỉ lên chỉ xuống mà cho là thuận là ngược. Chung quy của điên đảo chẳng qua là chạy theo cái động của trần tướng bên ngoài mà quên mất tánh thấy bất động đang thấy cái động kia.

Thân tâm bất tịnh, biến diệt luôn luôn của chúng sanh so với Pháp thân thanh tịnh thường trụ của chư Phật thì gọi là điên đảo. Điên đảo là không nhận lấy Pháp thân mà cho cái thân tâm chuyển động, biến diệt, vô thường này là duy nhất thật, và phục vụ cho nó suốt đời này. sang đời khác.

………………………..

Phật khởi từ bi thương xót A Nan và đại chúng, phát tiếng hải triều, bảo khắp hội chúng:

Các thiện nam tử! Ta thường nói rằng: sắc, tâm, các duyên, các tâm sở cùng các pháp sở duyên đều chỉ do tâm mà hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện mở trong Tâm diệu minh thuần chân. Tại sao các ông bỏ mất bổn tâm viên mãn minh diệu, bản tánh minh diệu quý báu ấy để nhận cái mê trong cái vốn giác ngộ?

……………………..

Tâm và tánh là một. Tâm thì nhấn mạnh vào con người hơn; tánh thì chung cả con người và thế giới.

Thân tâm và thế giới, chúng sanh, đều hiện ra trong bản tâm diệu minh, như các bóng hiện trong gương. Bản tâm diệu minh ấy là tấm gương của tánh Không, nó chấp nhận tất cả các bóng nhưng chẳng nhiễm ô bởi bóng nào. Ở trong tấm gương tánh Không, các bóng đều là tánh Không, vốn tự giải thoát.

Nhưng sanh tử xảy ra khi các bóng ấy được cho là hiện hữu thật ở trong tâm đã bị nhiễm ô và hạn hẹp bởi cái ta và cái của ta. Các bóng ấy được cho là có tự tánh, từ đây là có những hành động hay nghiệp thương ghét, lấy bỏ, thuận nghịch, vui buồn…

Nếu thấy tất cả mọi hiện tướng thân tâm, thế giới, chúng sanh đều đang hiện ở trong tấm gương chân tâm diệu minh thuần chân, không có gì là ta và của ta, không có gì dính chết cứng vào gương được, ngay lúc ấy là giải thoát.

………………………………………….

Trong mê, mờ tối thành có hư không. Trong hư không mờ tối ấy, kết cái tối tăm thành sắc. sắc xen lẫn với vọng tưởng, lấy tướng của vọng tưởng làm thân. Nhóm các duyên dao động bên trong, rong ruỗi theo bên ngoài, rồi lấy cái tướng mù mịt lăng xăng ấy làm tâm tánh. Một khi mê lầm cái tướng ấy là tâm thì chắc chắn lầm cho tâm ở trong thân.

Chẳng biết rằng từ sắc thân cho đến núi sông, thế giới, hư không, hết thảy đều là vật ở trong chân tâm diệu minh. Ví như bỏ cả trăm ngàn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một cái bọt nước mà cho là toàn thể biển nước.

Các ông là những người trong mê, khác gì như cánh tay ta buông rủ xuống. Như Lai nói là đáng thương xót đó.

………………………….

Chân tâm là ánh sáng (Minh) và trống không (Không). không trực tiếp thấy và sống chân tâm Minh Không này thì tâm thức trở nên mờ tối vì đã mất tánh Minh. Mờ tối thì thấy tánh Không thành ra hư
không, một cái không trống rỗng trơ trơ.

Trong chân tâm Minh Không thì không có thân tâm và thế giới, vì tất cả đều là chân tâm Minh Không. Nhưng khi ra khỏi chân tâm Minh Không, thì có mờ tối và hư không, thế là thân tâm và thế giới bắt đầu.

Cái tối tăm kết thành sắc.Hóa ra sắc là ánh sáng, là minh, khi đã mê thì được nhìn thành ra bóng tối. sắc xen lẫn với vọng tưởng, khởi từ một tâm thức mờ tối, mà thấy có thân tâm. Trong thì dao động, ngoài thì rong ruỗi theo tiền trần, đó là tâm chúng sanh, tâm sanh diệt, tâm sanh tử. Tâm ấy ở trong một thân vọng tưởng, thành một thân tâm bọt nước trong toàn thể đại dương thuần chân.

Bám giữ cái thấy này, cho thân tâm và thế giới của nó là thật có, giữ một bọt nước mà không thấy tất cả là đại dương, đó là cái thấy điên đảo. Còn thấy tất cả đều ở trong đại dương Minh Không thuần chân, đều là đại dương Minh Không thuần chân, thì đây là cái thấy giải thoát.

…………………………………….

7. LỰA BỎ TÂM PHAN DUYÊN ĐỂ CHỈ RA
TÁNH THẤY KHÔNG THỂ TRẢ VỀ ĐÂU.

A Nan vâng nghe lời Phật từ bi cứu độ dạy bảo, khóc lóc rồi khoanh tay bạch Phật: Tuy con vâng nghe diệu âm của Phật như vậy, ngộ được tâm diệu minh vốn là tâm địa viên mãn thường trụ. Nhưng con ngộ nơi pháp âm Phật vừa dạy, đó là con cũng dùng tâm phan duyên để nhận biết điều ước mong. Dù được tâm ấy một cách mơ hồ, vẫn chưa dám nhận là tâm địa bổn nguyên.
Cúi mong Phật thương xót, lời viên âm tuyên dạy, nhổ gốc rễ nghi ngờ trong con để trở về đạo vô thượng.

…………………………………

Ngài A Nan tuy nói là ngộ tâm diệu minh vốn là tâm địa viên mãn thường trụ, nhưng vẫn còn mơ hồ vì chưa dứt được một cách căn bản chấp ngã và chấp pháp.

Tâm phan duyên là thức, biết được do có chủ thể biết và cái được biết. Trong khi đó tâm diệu minh thì hoàn toàn vắng bặt vì chưa từng có chủ thể và đối tượng. Có chủ thể và đối tượng, đó là thức. Không có chủ thể và đối tượng, đó là trí.

Vì còn dính dấp với thức nên tâm diệu minh trở thành đối tượng mơ hồ như là vật, và cũng tâm diệu minh ấy trở thành chủ thể như là ta. Vì còn vật và ta như vậy nên còn gốc rễ nghi ngờ.

……………………………………….

Phật bảo A Nan: Các ông còn lấy tâm phan duyên để nghe pháp thì pháp đó cũng là cái được duyên, chẳng phải được pháp tánh.

Như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng cho người kia thì người kia phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Chứ nếu người kia nhìn ngón tay mà cho đó là thể mặt trăng thì không những bỏ mất mặt trăng mà còn bỏ mất ngón tay nữa. Vì sao thế? Vì lấy ngón tay chỉ mà cho đó là mặt trăng sáng. Không những bỏ mất ngón tay mà lại cũng không biết sáng và tối. Vì sao thế? Vì lấy cái thể của ngón tay cho là tánh sáng của mặt trăng, không biết hai tánh sáng và tối. Các ông cũng như vậy.

……………………………………..

Lấy tâm phan duyên nghe pháp thì pháp ấy cũng là đối tượng được phan duyên, không phải pháp tánh. Khi ấy pháp trở thành thức phân biệt, chứ không phải là trí.

Tâm phan duyên vừa thấy đối tượng liền chấp cứng, vừa thấy ngón tay chỉ mặt trăng liền chấp cứng ngón tay nên không thể thấy mặt trăng.

Chính sự chấp cứng này đã tạo ra bóng tối trong tâm, thành thử kinh nói chẳng biết sáng tối.

Không bám chấp thì tất cả là ánh sáng, tất cả là mặt trăng, tất cả là pháp tánh Minh-Không.

Không phan duyên, nghĩa là không vọng tưởng theo nhân duyên thì khi ấy thấy ngay cái “chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên”.

……………………………………….

Nếu lấy cái phân biệt tiếng nói pháp của ta làm tâm của ông, thì tâm ấy lẽ ra khi lìa tiếng phân biệt tự nó vẫn có tánh phân biệt. Ví như người khách ngủ trọ trong quán trạm,ở tạm rồi đi, chẳng thường trụ mãi. Còn người chủ quán thì không đi đâu cả mới gọi là chủ.

Đây cũng vậy, nếu thật là tâm của ông thì chẳng đi đâu, làm sao lìa tiếng lại không có tánh phân biệt?

Thế thì chẳng những tâm phân biệt các âm thanh, mà tâm phân biệt hình dung của ta, khi lìa các sắc tướng, cũng không có tánh phân biệt.

Như vậy cho đến mọi phân biệt đều không có, chẳng phải sắc, chẳng phải không, mà nhóm Câu Xá Ly lầm cho là Minh Đế. Lìa các pháp duyên mà không có tánh phân biệt, thì tâm tánh của ông, mỗi mỗi đều có chỗ trả về, làm sao gọi là chủ?

……………………………………..

Tâm phan duyên không phải là chân tâm vì khi lìa thanh, lìa sắc thì hết sống, không còn tánh phân biệt. Nó chỉ hiện hữu khi có duyên thanh, sắc; khi không có duyên thì hết hiện hừu. Thế thì làm sao gọi là chủ, là thường trụ?

Cái tâm không cần duyên mà vẫn có tánh phân biệt, đó gọi là tánh giác. Tánh giác ứng nơi mắt gọi là tánh thấy, ứng nơi tai gọi là tánh nghe….

ở nơi chúng ta có cái suốt ngày “không đi đâu cả mà vẫn hằng biết”, suốt muôn đời “không đi đâu cả mà vẫn hằng biết”. “Cái thật thì chẳng đi đâu”, lồ lộ, sáng rỡ, rỗng rang, “không có mắt tai mũi lưỡi thân ý”. Chẳng có sanh tử nào, Niết bàn nào đuổi nó đi được cả, chẳng có vọng tưởng nào dời nó nhúc nhích được một ly.

Hãy mở to mắt sống với tánh thấy hay tánh giác vốn không cần có duyên sẳc tướng. Mở rộng tai sống với tánh nghe hay tánh giác vốn không cần có duyên âm thanh. Và hãy sống với tâm tánh không cần có nhân duyên nào để hiện hữu. Tâm tánh không cần có nhân duyên, đây chính là giải thoát.

………………………………….

A Nan thưa: Nếu tâm tánh của con mỗi mỗi đều có chỗ trả về thì thế nào là tâm diệu minh vốn sẳn không trả về đâu? Cúi mong Phật thương xót chỉ bảo cho con.

Phật bảo A Nan: Hãy xem cái thấy vốn sáng của ông đang thấy ta đây. Cái thấy ấy tuy chưa phải là tâm diệu minh thuần túy, nhưng nó như mặt trăng thứ hai, chứ không phải là bóng mặt trăng (trên nước). Ông hãy lắng nghe, nay ta sẽ chỉ cho ông cái không có chỗ trả về.

A Nan, cửa đại giảng đường mở thông về hướng Đông, khi mặt trời lên thì chiếu sáng, nửa đêm không trăng mây mù thì lại thấy tối. Chỗ có cái cửa thì thấy thông suốt, chỗ có tường vách thì thấy ngăn bít. Chỗ phân biệt được thì thấy cảnh duyên, chỗ trống rỗng thì toàn là hư không. Khi bụi nổi lên thì cảnh tượng mù mịt, mưa tạnh trời quang lại thấy trong sáng.

A Nan, ông hãy xem các tướng biến hóa này, nay ta trả mỗi thứ về chỗ sanh khởi của chúng. Thế nào là chỗ sanh khởi? A Nan, các thứ biến hóa này, cái sáng trả về cho mặt trời. Vì sao thế? Vì không mặt trời thì không sáng, ánh sáng thuộc và do mặt trời, nên trả về cho mặt trời. Cái tối trả về cho đêm không trăng. Thông suốt trả về cho các cửa. Ngăn bít trả về cho tường vách. Cảnh duyên trả về cho phân biệt. Trống rỗng trả về cho hư không. Mù mịt trả về cho bụi bặm. Trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả những sự vật trong thế gian đều không ngoài những loại ấy. Còn tánh thấy sáng tỏ của ông thấy tám thứ kia, ông muốn trả về đâu? Vì sao thế? Nếu trả nó về cho sáng thì khi không sáng bèn chẳng thể thấy tối. Tuy sáng tối mỗi mỗi đều khác biệt, nhưng cái thấy không khác biệt.

Các thứ có thể trả về, dĩ nhiên chẳng phải là ông. Còn cái không trả về được, chẳng phải là ông thì là ai?

Thế mới biết tâm ông vốn sáng tỏ, thanh tịnh, nhiệm mầu. Chỉ ông tự mê muội, bỏ mất tánh bổn nhiên mà chịu luân hồi, thường bị chìm đắm trong biển sanh tử. Thế nên, Như Lai nói là đáng thương xót.

………………………………………

Cái thấy hiện giờ của mỗi người, tuy mới là mặt trăng thứ hai, nhưng mặt trăng thứ hai không thể có nếu không có mặt trăng thật. Nó là mặt trăng thật nhưng do mắt yếu mà thấy thế thôi, chứ chẳng phải là hoàn toàn không phải, như mặt trăng trong nước thì không phải, vì trong nước không có mặt trăng.

Thế nên nếu biết ngay nơi cái thấy hằng ngày mà nhận ra tánh thấy, đó là mục đích của đoạn kinh này, mà cũng là mục đích của đời người.

Hãy mở to mắt mà nhìn: tất cả các cái đều có thể trả về, còn cái đang thấy chẳng thể trả về đâu cả. Cái thấy không nhờ vào các duyên, đó là tánh thấy. Cái đó chẳng phải là ông thì là ai?

Cái không thể trả về, đó là tánh thấy hiện tiền, mãi mãi hiện tiền.

Các bóng trong gương đều có chỗ trả về, nhưng tấm gương tâm không chỗ nào có thể trả về, nên nó lồ lộ, chẳng thể bỏ, chẳng thể lấy, chẳng thể di dời, nhắm mắt mở mắt đều thấy, xoay đầu ngoảnh cổ đều thấy, chưa từng thiếu hụt mảy may.

Cái đó là Phật tánh sẳn có của mỗi chúng sanh (Kinh Đại Bát Niết Bàn), là cái thấy biết của Phật, tri kiến Phật đang có nơi mỗi chúng sanh (Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa).

…………………………………………

8. LỤ’A RIÊNG TRẦN CẢNH ĐỂ NÊU RA
TÁNH THẤY.

A Nan thưa: Tuy con biết tánh thấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được đó là chân tánh của con?
Phật bảo A Nan: nay ta hỏi ông, hiện ông chưa được đạo quả vô lậu thanh tịnh, nương thần lực Phật mà thấy cõi sơ thiền không chướng ngại. Ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm Phù Đề như xem quả Am ma la trong lòng bàn tay. Các vị Bồ tát thấy trăm ngàn cõi. Mườỉ phương Như Lai thì thấy tận cùng các cõi nước thanh tịnh nhiều như vi trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng sanh thì thấy rõ không quá gang tấc.

A Nan, ta cùng ông lại xem cung điện của Tứ thiên vương, ở khoảng giữa xem khắp các loài trong nước, trên đất, trên không, tuy có nhiều hình tượng sáng tối khác nhau, nhưng đều là tiền trần phân biệt ngăn ngại. Ông hãy ở ngay nơi đó phân biệt cái gì là mình, cái gì là vật. Nay ta để cho ông lựa chọn trong cái thấy đó, cái gì là chính mình, cái gì là vật tượng?
A Nan, cùng tột cội nguồn cái thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật, chẳng phải là ông; cho đến bảy ngọn núi bằng vàng (bao quanh núi Tu Di), xem xét cùng khắp, tuy có những thứ ánh sáng, cũng là vật chứ chẳng phải là ông. Lần lần xem đến mây kéo, chim bay, gió động, bụi dấy, cây cối, núi sông, rau cỏ, người thú, thảy đều là vật chứ chẳng phải là ông.

A Nan, tính chất của các vật xa gần tuy có sai khác nhưng đồng là vật do tinh túy của cái thấy (kiến tinh) thanh tịnh của ông nhìn thấy. Vậy các vật loại ấy tự có sai khác mà tánh thấy không sai khác. Cái tinh túy diệu minh này thật là tánh thấy của ông.

………………………………….

Tánh thấy không phải là vật. Vật thì có sai khác mà tánh thấy thì không sai khác. Vật thì có chỗ trả về, còn tánh thấy không có chỗ trả về (không có chỗ trụ), không thể trả về (thường trụ) nên nó là Chính Mình.

Nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn cao thấp, rộng hẹp khác nhau nhưng đều là công dụng của tánh thấy. Nhãn là con mắt, tánh thấy biểu lộ nơi năm loại nhãn cao thấp khác nhau ấy. Cả năm loại nhãn đều nằm trong tánh thấy. Như thế, như ngài A Nan và tất cả chúng sanh chúng ta, ngay nơi nhục nhãn vẫn có tánh thấy, và Đức Phật chi cho tánh thấy nơi nhục nhãn của chúng ta.

Tóm tắt, tánh thấy có nơi tất cả mọi loại nhãn, và không sai khác, bình đẳng hiện hữu nơi tất cả mọi loại nhãn. Thậm chí, như đoạn trước của kinh, có cả nơi người mù.

Như thế thấy bằng bất kỳ loại mắt nào, đó cũng là tánh thấy.

Tánh thấy không sai khác về mặt chủ thể, người thấy. Nó bình đẳng ở nơi mọi chúng sanh, gá vào từng nghiệp riêng của mỗi chúng sanh mà thành cái thấy sai khác của mỗi chúng sanh. Cũng như ánh sáng thì bình đẳng ở khắp cả, còn thấy cái gì, như thế nào, là do nghiệp riêng, vị trí, thời gian, tâm trạng của con người. Tánh thấy cũng không sai khác đối với vật được thấy: xa gần, núi sông, cây cỏ, con người, thú vật… Vật thể có sai biệt mà tánh thấy chẳng sai biệt.

 Thế thì, đang thấy bất cứ cái gì, đó chính là tánh thấy đang thấy.

Tánh thấy hiện hữu nơi tất cả các loại mắt, cho nên thấy bằng con mắt gì, đó chính là tánh thấy đang thấy.

Đang thấy bất cứ cái gì, đó chính là tánh thấy không sai khác.

………………………………

Nếu tánh thấy là vật thì ông cũng có thể thấy được cái thấy của ta.

Nếu khi cùng thấy sự vật gọi là thấy cái thấy của ta, thì khi ta không thấy, sao ông không thấy được chỗ không thấy của ta?

Nếu ông thấy được cái không thấy của ta, thì tự nhiên cái không thấy của ta làm gì có tướng để cho ông thấy?

Còn nếu không thấy được chỗ không thấy của ta, thì tánh thấy vốn chẳng phải là vật, sao nó lại chẳng phải là ông?

Lại nữa, nếu cái thấy là vật thì khi ông thấy vật, ông đã thấy vật thì vật cũng phải thấy ông. Thế là thể và tánh xen lộn, tức là ông với ta cùng các thế gian không thành lập được.

A Nan, như khi ông thấy, đó chính là ông chứ chẳng phải ta, tánh thấy toàn khắp ấy chẳng phải là ông thì là aỉ?

Tại sao lại tự nghi chân tánh của mình. Tánh của ông vốn không chân hay sao mà bám lấy ta cầu tìm cái chân thật?

…………………………………….

Ngài A Nan còn nghi ngờ chân tánh của mình nên Đức Phật chứng minh cho thấy tánh thấy không phải là vật nhưng thấy được các vật thì đó là “chẳng phải là ông thì là ai?” Các bóng đều có chỗ để trả về, còn tấm gương không trả về đâu cả thì nó chính là ông, xưa nay và mãi mãi là ông chứ làm sao có thể từ chối mà cho là của ai khác, của vật gì khác.

Năm đoạn bàn luận này để chỉ rõ tánh thấy không phải là vật, và do đó chẳng dính dáng gì đến sanh tử vô thường này cả. Cho nên hành giả phải thiền định thiền quán từng câu một, để thật thấy tánh thấy không phải là vật, không dính dáng gì đến không gian thời gian, và do đó nó vốn là giải thoát.

Đây là sự tách biệt, gạn lọc tách ra khỏi tướng. Nhờ nơi vật, nơi tướng mà chúng ta có thể thấy ra cái vốn chẳng phải vật, cái vô tướng, vô niệm, vô trụ.

Khi dùng thiền định thiền quán để phân biệt, nhận ra tánh thấy vốn xưa nay vẫn ở nơi mình và không phải là vật, dù vật ở trong hay ở ngoài, và do đó tánh thấy không bị giới hạn bởi bất cứ vật gì, thì ngay lúc đó chứng biết tánh thấy chính là mình và toàn khắp.

Chỉ một câu, “tánh thấy toàn khắp ấy chẳng phải là ông thì là ai?”, mà tham thiền mãi miết ắt có lúc nhìn thấy tận mặt nó, phát minh cái đại sự nhân duyên vì đó mà Đức Phật ra đời.

Chẳng phải hiện giờ ta đang thấy bằng tánh thấy toàn khắp ấy đây sao?

………………………………….

A Nan bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, nếu tánh thấy ấy thật là con chứ không phải là ai khác, thì khi con cùng Như Lai xem cung điện thù thắng của Tứ thiên vương ở cung Nhật nguyệt, cái thấy ấy cùng khắp cõi Ta bà, khi quay về tịnh xá thì chỉ thấy cảnh vườn chùa, nơi giảng đường thanh tịnh thì chỉ thấy hành lang.

Bạch Thế Tôn, cái thấy như thế, thể của nó xưa nay cùng khắp một cõi, nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng, thế là cái thấy rút lại từ lớn thành nhỏ hay tường vách chia cắt làm cho đứt đoạn? Nay con không biết nghĩa ấy thế nào, cúi mong Thế Tôn từ bi chỉ rõ cho con.

Phật bảo A Nan: Tất cả mọi thứ trong ngoài,lớn nhỏ ở thế gian đều thuộc về tiền trần, không nên nói tánh thấy có co giản. Thí như trong vật hình vuông, thì thấy hư không có hình vuông. Nay ta lại hỏi ông, hư không vuông được nhìn thấy trong vật vuông ấy là cái vuông nhất định hay không nhất định. Nếu nhất định vuông thì khi ở trong vật tròn, hư không lẽ ra không tròn. Nếu không nhất định thì ở trong vật vuông lẽ ra không có hư không vuông. Ông nói không biết nghĩa ấy thế nào, nghĩa tánh là như thế, chứ còn thế nào nữa?

………………………………….

Tánh thấy chẳng dính dáng gì đến vật. Chẳng phải thấy vật hẹp thì nó hẹp lại, thấy vật rộng thì nó rộng ra.

Tánh thấy như hư không, một nghĩa của nó là tánh Không. Như hư không, không phải ở trong vật vuông mà hư không là vuông; không phải ở trong vật tròn mà hư không là tròn. Hư không không lệ thuộc vào vật, nên hư không ở khắp tất cả. Tánh thấy không giới hạn nơi vật được thấy nên tánh thấy thấu thoát qua tất cả mọi vật.

Không phải thấy cõi dục nó thành ra dục. Không phải thấy cõi sắc nó thành ra sắc. Không phải thấy cõi vô sắc nó thành ra vô sắc. Nó thấu thoát và chẳng bị nhiềm ô bởi cõi dục, cõi sắc, và cõi vô sắc. Nó chính là Niết bàn hay tánh Không, luôn luôn thoát khỏi ba cõi. Nó như hư không, bao la không bến không bờ, đồng thời ở trong hạt bụi. Và ba cõi là hoa vọng thấy giữa hư không.

Chúng ta có bao giờ sống ngoài tánh thấy được sao? Chúng ta có bao giờ thấy ngoài tánh thấy được sao?

Thấy nó rõ ràng và sống liên tục với nó, đó là giải thoát trong từng niệm niệm.

Nghĩa tánh là như vậy.

…………………………………

Lại như ông hỏi: Khi vào trong nhà, cái thấy rút nhỏ lại, vậy thì khi ngước xem mặt trời, phải chăng tánh thấy kéo dãn ra lên đến mặt trời ?

Nếu xây tường mà chia cắt tánh thấy làm cho đứt đoạn, thì khi xoi một chỗ nhỏ sao lại không thấy dấu nối ? Nghĩa ấy chẳng đúng vậy.

……………………………………….

Tánh thấy không rút nhỏ, không kéo dãn theo vật vì tánh thấy không phải là vật, do đó tánh thấy thường trụ như hư không. Tánh thấy như hư không, các vật không thể làm ngăn ngại, đứt đoạn nó. Tánh thấy không chỗ trụ, cho nên chỗ nào cũng là tánh thấy.

Trong tánh thấy vô ngại và vô hạn đó, có đủ mọi cái nhìn thấy của tất cả mọi loài, có đủ các vật được thấy của tất cả mọi cõi. Nhưng chẳng có cái thấy theo biệt nghiệp nào, chẳng có vật của cõi nào có thể ngăn ngại tính thấu thoát vô ngại của nó. Chẳng lẽ vì vài cái bóng trong gương mà gương rút nhỏ lại hay kéo dãn ra ?

Trong cái thấy theo biệt nghiệp hiện giờ của chúng ta, chúng ta phải nhìn ra cho được tánh thấy thấu thoát qua cái thấy giới hạn này, thấy cho được tánh thấy Minh Không xuyên suốt cả ba cõi. Nếu có một sắc tướng xấu tốt nào ngăn chặn, chia cắt tánh thấy thì chúng ta bắt đầu rơi vào sanh tử. Nếu có một bóng nào chướng ngại, chia cắt tấm gương mà ánh sáng thấu thoát qua mọi bóng thì đó là tự giới hạn, tự chia cắt chính mình.

Ngay nơi con mắt của ta có cái vô hạn, có cái vĩnh viễn vượt khỏi sanh tử. Hãy thấy biết nó và sống trọn vẹn với nó.

…………………………………..

Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, mê mình làm vật, bỏ mất bản tâm, bị vật xoay chuyển, cho nên ở ngay trong đó mà thấy lớn thấy nhỏ.

Nếu hay chuyển được vật tức đồng Như Lai. Thân tâm tròn sáng, đó là đạo tràng bất động, trên đầu một mảy lông trùm chứa cõi nước mười phương.

……………………………………..

Mê mình làm vật là đồng hóa mình với thân tâm này, với cái ta và cái của ta, mà không biết rằng bản tâm mình bao trùm toàn bộ vũ trụ. Như kinh nói ở đoạn trước, nhận một bọt biển mà cho là tất cả đại dương.

Khi nhận vật làm mình thì bị vật xoay chuyển, theo đuổi, thương ghét lấy bỏ, cuộc đời mình càng ngày càng hạn hẹp thành một hạt bụi dật dờ của thế giới sanh tử, còn mất, thêm bớt, đến đi, có không…. Thật đáng thương xót.

Mê mình làm vật là bỏ mất bản tâm để chạy theo vật, lạc mất trong thế giới sắc tướng khác biệt và phân cách. Mê mình làm vật là chuyển tánh thành tướng, chuyển hư không thành ra hoa đốm, chuyển Niết bàn thành ra sanh tử.

Mê mình làm vật là tự đồng hóa với vật, còn dám dừng lại sự đồng hóa này, ngay khi đó mình là bản tâm bao trùm vũ trụ chứ đâu phải là cái gì khác.

Hay chuyển được vật là an trụ nơi bản tâm để chuyển tất cả vật trở lại bản tánh của chúng là bản tâm mình. Hay chuyển được vật là chuyển tướng thành tánh, chuyển thức thành trí, chuyển sanh tử thành Niết bàn.

Chuyển bằng cách nào? Bằng cách nhiếp tất cả tướng về tánh, về đạo tràng bất động. Trong tánh hay trong đạo tràng bất động, tất cả tướng đều bất động.

An trụ trong tấm gương thì mọi bóng đều nằm trong gương và chính là gương. Khi ấy mây là mây Như Lai, sông là sông Như Lai, cây là cây Như Lai.

Không có cái gì ngoài Như Lai này, đây là đạo tràng bất động.

Thân tâm tròn sáng, đồng với Như Lai là tất cả, cho nên trên đầu một mảy lông trùm chứa cõi nước mười phương.

Đạo tràng bất động này là Đại định Thủ Lăng Nghiêm, cũng là Pháp thân của chư Phật.

………………………………..

MỤC III
1. NÊU TÁNH THẤY VƯỢT NGOÀI NGHĨA PHẢI VÀ
CHẲNG PHẢI.

A Nan bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, nếu tinh túy của cái thấy (kiến tinh) này chắc hẳn là diệu tánh của con thì diệu tánh ấy phải hiện tại ở trước mắt. Tánh thấy ấy thật là con thì thân tâm con hiện giờ lại là vật gì?
Nhưng nay thân tâm con thật có phân biệt, còn tánh thấy kia không phân biệt,  khác với thân con. Nếu nó thật là tâm con, khiến con hiện nay thấy được, thì tánh thấy thật là con mà thân này không phải là con.
Thế thì đâu có khác gì trước kia Như Lai đã gạn hỏi, vật có thể thấy được con chăng. Cúi mong bậc Đại Từ mở bày cho kẻ chưa ngộ.

…………………………………

Vì chưa thật biết tánh thấy nên tánh thấy chưa thể tiêu dung thân tâm, do đó có một bên là tánh thấy, một bên là thân tâm. Thân kiến vẫn còn nên chưa thể Nhập lưu, chưa chuyển được vật để đồng với dòng nước pháp của Như Lai.

Thân tâm khác biệt với tánh thấy, chưa thể tan chảy làm một với tánh thấy thì dùng Chỉ, Quán, Thiền khiến cho nó tiêu dung. Bởi vì chỉ có chấp ngã, chấp pháp mới là những chướng ngại duy nhất ngăn che mình với tánh thấy, chứ tánh thấy thì thường trụ xưa nay, vốn sẵn, chẳng phải do làm ra, chẳng phải do tu tập.

Thân tâm như cái chai. Ở trong chai là hư không, ở ngoài chai là hư không, hư không ở khắp tất cả. Khi thấy biết được hư không thì không thể nói thân tâm này khác với diệu tánh.

………………………………..

CHỈ RA TÁNH THẤY CHẲNG PHẢI TỨC LÀ.

Phật bảo A Nan: Nay ông nói, tánh thấy ở trước mặt ông, nghĩa ấy không đúng. Nếu thật ở trước mặt ông và ông thật thấy được nó thì cái tinh túy của cái thấy đã có nơi chốn, chẳng phải không chỉ ra được.
Vậy nay ông cùng Như Lai ngồi trong vuờn Kỳ Đà, xem khắp rừng suối, nhà cửa, cho đến mặt trời mặt trăng, phía trước là sông Hằng. Nay ông đang đứng trước tòa Sư tử của ta, hãy đưa tay chỉ rõ ra các thứ hình tướng kia: chỗ im mát là rừng, ánh sáng là mặt trời, chỗ ngăn ngại là vách, thông suốt là hư không, như thế cho đến cỏ cây, mảy mún, nhỏ lớn khác nhau, nhưng đã có hình tướng thì đều chỉ ra được.

Vậy nếu tánh thấy nhất định hiện ở truớc mặt ông, thì ông hãy lấy tay chỉ đích xác cái gì là tánh thấy. A Nan, ông nên biết, nếu hư không là tánh thấy, đã thành tánh thấy rồi, thì cái gì là hư không?
Nếu vật là cái thấy thì vật đã thành tánh thấy, thì cái gì là vật? Ông hãy phân tích muôn tượng để tách ra tánh thấy sẵn có, sáng tỏ, thanh tịnh, nhiệm mầu để chỉ bày cho ta như các vật kia một cách phân minh không lầm lẫn.
A Nan thưa: Nay con ở trong giảng đường này, xa thấy sông Hằng, trên thấy mặt trời mặt trăng. Đưa tay chỉ ra, đưa mắt mà xem thì những cái chỉ ra được đều là vật, không có cái gì là tánh thấy.

Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy, chẳng những hàng hữu lậu sơ học Thanh Văn chúng con, mà cho đến các vị Bồ tát cũng không thể đối trước hiện tượng muôn vật có thể chỉ ra được tinh túy của cái thấy (kiến tinh) mà lìa ngoài tất cả vật có riêng tự tánh.
Phật nói: Đúng như vậy, đúng như vậy.

………………………………..

Tánh thấy không phải là vật, cho đến không phải hư không, nên không thể chỉ ra là cái gì cụ thể. Nó không có tướng, là Vô tướng. Nó cũng không có riêng tự tánh, là Vô tánh. Vì vô tướng và vô tánh nên nó không tức là cái gì cả. Không tức là cái gì cả nên nó giải thoát khỏi tất cả. Đồng thời vì không có tự tánh nên nó ở khắp tất cả.

Tánh thấy không phải vật, nhưng nhờ có vật, nó mới hiển bày với chúng ta. Như đại dương không phải là sóng, nhưng nhờ có sóng chúng ta mới nhìn ra được đại dương là nền tảng của sóng.

Chỉ một cái ‘không tức là’ này mà tham thiền cho đến tận nguồn sẽ thấy tận mặt tánh thấy ‘không tức là’ này. Cái ‘không tức là’ không thể trả về đâu này luôn thường trụ trước mắt chúng ta.

…………………………………..

CHỈ RA TÁNH THẤY CHẰNG PHẢI LÀ
CHẲNG PHẢI.

Phật bảo A Nan: Như ông đã nói, không có tánh thấy lìa tất cả vật mà riêng có tự tánh, thì trong tất cả cái chỉ ra được đều là vật, không có cái gì là tánh thấy cả.
Nay ta hỏi lại ông, ông cùng Như Lai ngồi trong rừng Kỳ đà, lại xem vườn rừng cho đến mặt trời mặt trăng, đủ thứ hình tượng khác nhau, nhất định không có tánh thấy cho ông chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, cái gì chẳng phải là tánh thấy?
A Nan thưa: Quả thật, con nhìn khắp rừng Kỳ đà này chẳng biết trong ấy cái gì chẳng phải là tánh thấy. Vì sao thế? Nếu cây chẳng phải là tánh thấy thì làm sao thấy được cây? Nếu cây tức là tánh thấy thì sao gọi là cây? Như thế cho đến hư không chẳng phải là tánh thấy thì làm sao thấy được hư không? Nếu hư không tức là tánh thấy thì sao gọi là hư không?
Con lại suy nghĩ, trong muôn vật đây, phát minh cho vi tế thì không có cái gì chẳng phải là tánh thấy cả.
Phật nói: Đúng như vậy, đúng như vậy.

………………………………..

Cái cây cho đến hư không chẳng phải là tánh thấy thì làm sao thấy được cây cho đến hư không. Còn nếu như cây cho đến hư không là tánh thấy thì sao còn gọi là cây và hư không?

Tức là thì chẳng phải, mà chẳng phải là cũng chẳng phải. Tánh thấy siêu vượt tức là và chẳng phải, có và không, thường và đoạn, đến và đi, một và nhiều….vì tất cả những ý niệm này chỉ là hý luận.

Lại suy nghĩ, phát minh cho vi tế thì không có cái gì chẳng phải là tánh thấy vì tôi đang thấy tất cả đây mà, tánh thấy vẫn hiện diện lúc này, ở đây.

Cứ nghe (văn), suy nghĩ (tư), và thực hành (tu) tới mức vi tế thì sẽ phát minh ra tánh thấy hiện đây, bây giờ mà ‘chẳng phải là cái gì cả mà là tất cả’ luôn luôn hiện bày trước mặt.

Một khi chứng thực được tánh thấy như tấm gương Đại viên cảnh trí này thì gương chẳng phải tức là bóng mà gương cũng chẳng phải chẳng là bóng, đây là điều hiển nhiên.

…………………………………

2.NGÀI VĂN THÙ KÍNH XIN PHẬT PHÁT MINH
HAI NGHĨA TỨC LÀ VÀ CHẲNG PHẢI.

Khi ấy những vị chưa chứng quả Vô học trong đại chúng, nghe Phật nói thế, mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào lo sợ mất chỗ bám níu.
Như Lai biết đại chúng lo sợ, sanh lòng thương xót an ủi A Nan và đại chúng: Các thiện nam tử! Bậc Vô thượng Pháp vương nói lời chân thật, như tánh chân như mà nói, không hư dối, chẳng phải như bốn thứ nghị luận càn dở của nhóm Mạt già lê. Các ông hãy chín chắn suy nghĩ, chớ phụ lòng thương mến của ta.
Lúc ấy Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử thương xót bốn chúng, từ chỗ ngồi trong đại chúng đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật: Bạch Thế Tôn, đại chúng đây chưa ngộ được chỗ Như Lai phát minh hai nghĩa ‘tức là’ và ‘chẳng phải’ của tánh thấy và sắc không.

 

Bạch Thế Tôn, như vậy các hiện tượng sắc không trước mắt, nếu tức là tánh thấy thì đáng lẽ ra phải chỉ ra được, còn nếu chẳng phải là tánh thấy thì lẽ ra không thể thấy được. Nay chẳng biết nghĩa này về đâu nên mới lo sợ, chứ chẳng phải thiện căn trước đây mỏng ít. Cúi mong Như Lai từ bi phát minh cho rõ các vật tượng và tánh thấy vốn là cái gì mà ở trong ấy không có cái tức là (thị) và chẳng phải (phi thị)?
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi cùng tất cả đại chúng: Mười phương Như Lai và các Đại Bồ tát tự trụ trong chánh định này, thì trong ấy, cái thấy cùng các duyên thấy đều là tướng do tưởng, như hoa đốm giữa hư không vốn không chỗ có.

 

Cái thấy và các duyên được thấy nguyên là thể Giác ngộ sáng tỏ thanh tịnh nhiệm mầu. Làm sao trong ấy lại có nghĩa tức là và chẳng phải?

………………………………..

Khi thấy có tướng bèn đặt ra câu hỏi tướng tức là tánh hay chẳng phải tánh. Sắc tức là Không hay chẳng phải Không. Khi thấy sanh tử bèn có vấn đề sanh tử tức là Niết bàn hay chẳng phải Niết bàn. Khi thấy hoa giữa hư không bèn đặt ra vấn đề hoa tức là hư không hay chẳng phải hư không.

Vấn đề tức là và chẳng phải được đặt ra một khi đã thấy các tướng do tưởng tạo thành. Không có tưởng phân biệt, không có vọng thấy thì mọi vấn đề chỉ là hý luận.

Không có tưởng phân biệt thì tất cả tướng đều thanh tịnh, sáng tỏ, nhiệm mầu, tất cả đều là thể Giác ngộ, từ một hạt bụi cho đến vũ trụ. Không chạy theo tướng và tưởng phân biệt thì tất cả đều là tánh thấy, sáng tỏ, thanh tịnh, nhiệm mầu. Tánh thấy ấy là thể Giác ngộ, trong ấy tất cả đều vốn là giác ngộ.

Đây là chỗ kinh Kim Cương nói: “Phàm hể có tướng đều là hư vọng. Thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai” và “Tất cả pháp đều là Phật pháp”.

………………………………….

TÁNH THẤY KHÔNG CÓ TỨC LÀ
HAY CHẲNG PHẢI.

Này Văn Thù, nay ta hỏi ông: Như ông chính là Văn Thù, lại còn có Văn Thù nào tức là Văn Thù hay chẳng phải Văn Thù nữa hay không?
Bạch Thế Tôn, đúng như thế. Con nay thật là Văn Thù, không có tức là Văn Thù nào nữa. Vì sao thế?

Nếu có tức là Văn Thù thì sẽ có hai Văn Thù. Nhưng giờ đây con chẳng phải là không Văn Thù.

Trong ấy thật không có hai tướng tức là hay chẳng phải.

…………………………………

Khi chứng ngộ hoàn toàn tánh thấy thì không gì chẳng là tánh thấy. Không thể nói cây này tức là hay chẳng phải tánh thấy, hòn đá kia tức là hay chẳng phải tánh thấy, người trẻ tươi đẹp người già khô nhăn kia tức là hay chẳng phải tánh thấy…

Khi chứng ngộ hoàn toàn tấm gương thì mọi bóng cao thấp, xấu tốt, xanh đỏ .. .đều là gương. Khi thế giới đồng một tánh vàng thì tất cả đều là vàng, không còn một khe hở nào cho ‘tức là’ vàng hay ‘chẳng phải’ vàng.

Ngài Văn Thù là trí huệ. Trong trí huệ thì tất cả đều là trí huệ, không thể nói cái này cái kia tức là hay chẳng phải trí huệ.

Kinh Đại Bát Nhã nói “Một tướng, vô tướng” chính là tánh thấy Minh Không này vậy.

Đầu tiên và cuối cùng là nhìn thấy Văn Thù. Hãy nhìn xem có cái gì không là Trí huệ Văn Thù: trong suốt, rỗng rang, kỳ diệu, thanh tịnh không một hạt bụi… Trước mắt là Văn Thù, không có cái gì không phải Văn Thù, không có một khe hở, một hạt bụi nào không phải là Văn Thù.

Khi tất cả mắt tai mũi lưỡi thân ý đều là Văn Thù, không có cái gì ngoài Văn Thù, thì nói Văn Thù tức là Văn Thù là lời dư thừa, thậm chí là một vọng tưởng. Vọng tưởng ấy liền sanh ra các vọng tưởng khác, như thí dụ Diễn Nhã Đạt Đa với cái đầu của mình.

Nhưng cái thấy Văn Thù mới xảy ra một lần, dù rõ ràng đến bao nhiêu, cũng chưa đủ. Phải niệm niệm không lìa cái Thấy ấy, đó là Thiền định. Và phải hòa cái thấy ấy với tất cả đời sống bằng toàn bộ thân tâm mình, đó là Hạnh. Cuối cùng mới tới Quả. Tất cả là Quả, chằng còn cái nhân nào.

………………………………….

Phật dạy: tánh thấy diệu kỳ sáng tỏ này, cùng với hư không và tiền trần cũng lại như vậy. Vốn là chân tâm giác ngộ vô thượng tròn sáng thanh tịnh nhiệm mầu, mà vọng làm ra sắc, không và các thứ thấy, nghe. Ví như (dụi mắt thấy) mặt trăng thứ hai, thì cái nào tức là mặt trăng thật, cái nào chẳng phải là mặt trăng.

Này Văn Thù, chỉ có một mặt trăng thật, trong đó vốn không có cái tức là mặt trăng hay chẳng phải là mặt trăng.

………………………………..

Tánh thấy, hư không, tiền trần chỉ là một thể Giác ngộ, không có một huống là có ba. Tánh thấy vốn là chân tâm giác ngộ tròn sáng thanh tịnh nhiệm mầu mà vọng làm ra sắc không, các thứ thấy nghe hay biết chỉ vì một niệm bất giác, như dụi mắt bèn vọng thấy có mặt trăng thứ hai. Trong mặt trăng chân tâm ấy, làm gì có tức là hay chẳng phải mặt trăng. Khi một niệm bất giác đã khởi bèn sanh ra vô số niệm bất giác phân biệt khác, từ nay có nhiễm ô, có tịnh hóa, có tu hành, có buông trôi.. .đều là việc làm trên mặt trăng thứ hai.

Vậy thì làm thế nào để mặt trăng thứ hai trở lại mặt trăng thật, duy nhất, không hai?

Hãy nhìn mà không có một niệm bất giác, một niệm phân biệt thì khi ấy chính là mặt trăng thật. Hãy nhớ luôn luôn rằng dầu lỡ thấy mặt trăng thứ hai, dầu lỡ thấy sắc thanh hương vị xúc pháp, dầu lỡ thấy tiền trần và hư không thì tất cả mọi thứ của mặt trăng thứ hai này luôn luôn ở trên mặt trăng thật. Dầu vọng niệm, vọng thấy, vọng nghe…thì tất cả đều xảy ra ngay trên mặt trăng thật.

Không có cái gì ở ngoài chân tánh, ngoài thể Giác ngộ.

Tham thiền là để thấy được tất cả là một Văn Thù, không có cái gì khác Văn Thù, không có cái gì ngoài Văn Thù.

……………………………………..

Thế nên nay các ông quan sát cái thấy và trần cảnh các thứ phát hiện ra được đều là vọng tưởng, trong ấy không thể chỉ ra tức là hay chẳng phải. Nhưng do đây là tánh giác diệu minh thuần chân, nên khiến các ông ra khỏi cái chỉ ra được và cái chẳng chỉ ra được.

……………………………………….

Trong tánh thấy hay tánh giác diệu minh thuần chân, chỉ có vọng tưởng phân biệt mới chia cắt thành tức là và chẳng phải, chỉ ra được và chẳng chỉ ra được. Nhưng dù có vọng tưởng phân biệt chia cắt bao nhiêu cũng vẫn là một “đây là tánh giác diệu minh thuần chân, nên khiến các ông ra khỏi cái chỉ ra được và cái chẳng chỉ ra được.

Ngộ ra được tánh giác hay tánh thấy này thì đâu đâu cũng sáng khắp (minh), vượt khỏi diễn tả ngữ ngôn (diệu), thuần nhất một vị Niết bàn Pháp thân (thuần chân).

Chỉ cần một niệm không có vọng tưởng phân biệt, thì không còn mặt trăng thứ hai, bèn “Nhìn kỹ pháp vương pháp, pháp vương pháp như vậy”. Rồi sống cái như vậy cho đến lúc hết vô minh tạo tác chia cắt, bây giờ tánh giác tròn đầy viên mãn, bổn nguyên.

……………………………………..

MỤC BỐN
PHÁ NHỮNG THUYẾT NHÂN DUYÊN TỰ NHIÊN,
CHỈ THẲNG TÁNH THẤY.

1. CHẲNG PHẢI TỰ NHIÊN NHƯ THẦN NGÃ.

A Nan bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, thật như Pháp vương đã nói, tánh giác duyên khắp mười phương thế giới, lặng trong, thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt thì so với thuyết Minh Đế của nhóm Phạm Chí Ta Tỳ Ca La và các thuyết của ngoại đạo như Đầu Hồi…nói có một chân ngã đầy khắp mười phương có gì sai khác?
Thế Tôn cũng từng ở núi Lăng Già vì Bồ tát Đại Huệ mà giảng rộng nghĩa này: các ngoại đạo kia thường nói tự nhiên, còn ta nói nhân duyên, chẳng phải cảnh giới của họ.
Nay con quan sát kỹ tánh giác ấy chẳng sanh chẳng diệt, xa lìa tất cả hư vọng điên đảo, hình như chẳng phải nhân duyên mà cùng với thuyết tự nhiên của ngoại đạo kia. Xin Phật khai thị để chúng con làm thế nào khỏi rơi vào tà kiến, được tánh giác chân thật diệu minh.

Phật bảo A Nan: nay ta phương tiện khai thị như vậy, chân thật bảo ông mà ông còn chưa ngộ, lầm cho là tự nhiên.
A Nan, nếu chắc là tự nhiên thì cần tự xét rõ có cái thể tự nhiên. Ông hãy quan sát trong tánh thấy diệu minh này, lấy cái gì làm tự thể? Tánh thấy này lấy cái sáng làm tự thể hay lấy cái tối làm tự thể? Lấy hư không là tự thể hay ngăn bít làm tự thể?
A Nan, nếu lấy cái sáng làm tự thể thì lẽ ra không thể thấy cái tối. Nếu trống không là tự thể thì lẽ ra không thể thấy ngăn bít.

Như thế cho đến lấy các tướng tối làm tự thể thì khi sáng, tánh thấy phải diệt mất, làm sao còn thấy được sáng?

…………………………………

Những câu hỏi của ngài A Nan càng lúc càng vi tế để đưa tâm thức chúng ta thoát ra khỏi những kiến chấp vi tế.

Tánh thấy nếu do nhân duyên thì tánh thấy phải sanh diệt. Đây là đoạn kiến.

Tự nhiên là một hữu thể có sẵn, là một cái gì đó. Nhưng tánh thấy nếu là một cái gì đó thì nó bị ngăn ngại bởi cái không là cái trên. Nếu là sáng thì bị tối ngăn ngại, nếu là trống không thì bị ngăn bít ngăn ngại…

Tánh thấy không có tự thể, không là một cái gì cả. Nó vô tự tánh, là tánh Không, vượt khỏi mọi “các thứ phát hiện ra được đều là vọng tưởng”.

Cho nó là tự nhiên chỉ là một hình thức chấp hữu, chấp thường kiến. Phá được cái vọng thấy thường kiến này mới có thể ngộ được tánh thấy xưa nay vẫn hiện tiền trước mắt, thoát khỏi ‘tức là’ hay ‘chẳng phải’.

“Tánh giác duyên khắp mười phương thế giới, lặng trong, thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt”, đây là một con mắt duy nhất của Sa môn.

………………………………….

2.CHẲNG PHẢI NHÂN DUYÊN.

A Nan thưa: Tánh thấy diệu kỳ này chắc chẳng phải là tự nhiên. Nay con phát minh là do nhân duyên sanh, nhưng tâm vẫn còn chưa rõ, Xin hỏi Như Lai nghĩa ấy như thế nào cho hợp với tánh nhân duyên?
Phật bảo: ông nói nhân duyên, ta lại hỏi ông, nay ông nhân thấy, tánh thấy hiện tiền. Vậy cái thấy này nhân nơi sáng mà có thấy hay nhân nơi tối mà có thấy, nhân nơi trống không mà có thấy hay nhân nơi ngăn bít mà có thấy?

A Nan nếu nhân nơi sáng mà có thì lẽ ra chẳng thấy được tối. Nếu nhân nơi tối mà có thì lẽ ra chẳng thấy được sáng. Như thế cho đến nhân nơi trống không, nhân nơi ngăn bít thì cũng đồng như nhân nơi sáng và tối.
Lại nữa, A Nan, cái thấy này lại duyên nơi sáng mà có thấy, hay duyên nơi tối mà có thấy? Duyên nơi trống không mà có thấy, hay duyên nơi ngăn bít mà có thấy?
A Nan, nếu duyên nơi trống không mà có, thì lẽ ra không thấy được ngăn bít. Nếu duyên nơi ngăn bít mà có thì lẽ ra không thấy được trống không. Như vậy cho đến duyên nơi sáng, nơi tối, cũng đồng như trống không và ngăn bít.

………………………………

Tánh thấy không nhân cái gì mà có, cũng không duyên nơi cái gì mà có. Vì nhân duyên thuộc về sanh diệt, mà tánh thấy thì chẳng sanh chẳng diệt, nhân duyên là chia cắt, mà tánh thấy không thể chia cắt.

Chằng phải tự nhiên, chẳng phải nhân duyên, muốn ngộ ra cái này phải vượt khỏi tâm, ý, ý thức. Nói cách khác, phải tham thiền cho tới lúc tâm, ý, ý thức tạo ra sanh tử và mọi hý luận về nó sụp đổ. Còn có hai chướng phiền não và sở tri thô nặng thì chẳng thể thấy được thực tại hiện tiền này là gì.

………………………………………

Phải biết tánh thấy minh diệu này chẳng phải nhân chẳng phải duyên, chẳng phải tự nhiên chẳng phải chẳng tự nhiên. Không có cái chẳng phải (phi) và không chẳng phải (bất phi), không có cái tức là (thị) và chẳng phải tức là (phi thị).

Lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp.

Nay ông làm sao ở trong ấy mà lấy tâm thi thố đem các danh tướng hý luận thế gian phân biệt cho được? Như lấy tay chụp bắt hư không, chỉ thêm tự nhọc, hư không làm sao để cho ông nắm bắt?

…………………………………..

Tánh thấy chẳng phải nhân duyên nên “thanh tịnh bản nhiên”.

Tánh thấy chẳng phải tự nhiên, nghĩa là chẳng phải một vật có sẵn, nên “toàn khắp pháp giới”.

Thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới nên chẳng phải là tôi hay của tôi, chẳng phải là anh hay của anh. Toàn khắp pháp giới nên chỉ gá vào căn mắt của mỗi người để biểu lộ. Thanh tịnh bản nhiên nên “ánh hiện” ra mọi cái được thấy mà chẳng bị nhiễm ô.

Lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp. Không là gì cả mà là tất cả. Một câu kinh này đủ để quán chiếu trọn đời. Bởi vì tùy theo sự quán chiếu sâu cạn khác nhau mà có những cấp độ Bồ tát sâu cạn khác nhau.

……………………………………

BÁC NHÂN DUYÊN VÀ TỰ NHIÊN.

A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, nếu quả tánh giác mầu diệu này chẳng phải nhân chẳng phải duyên, thế sao Thế Tôn thường chỉ dạy các Tỳ kheo rằng tánh thấy có đủ bốn thứ duyên, đó là nhân hư không, nhân ánh sáng, nhân nơi tâm, nhân mắt, nghĩa ấy thế nào ?
Phật bảo : A Nan, ta nói như thế là nói các tướng nhân duyên của thế gian, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. A Nan, ta lại hỏi ông, người trong thế gian nói ‘Tôi thấy được’, thì thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là không thấy ?

A Nan thưa : Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn mà thấy được mọi thứ hình tướng. Nếu không có ba thứ ánh sáng này thì không thể thấy được.
A Nan, nếu khi không có ánh sáng mà gọi là không thấy, thì lẽ ra không thấy được tối. Nếu thấy tối thì đó chỉ là không có ánh sáng, chứ đâu phải là không thấy ? A Nan, nếu khi tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy, thì khi sáng, không thấy tướng tối, cũng gọi là không thấy. Như thế thì cả hai tướng sáng tối đều gọi là không thấy. Còn nếu hai tướng sáng tối lấn át lẫn nhau, thì chẳng phải tánh thấy của ông trong đó có lúc tạm thời không có. Như thế thì biết: cả hai lúc sáng và tối đều gọi là thấy, chớ sao gọi là không thấy ?

…………………………………..

Tánh thấy không phải nhân duyên : sáng vẫn thấy tối vẫn thấy, trống không vẫn thấy ngăn bít vẫn thấy.

Tánh thấy hiện hữu trong mọi thời: khi thức, khi ngủ, khi thiền định và khi chết, đi vào trung ấm. Bốn cảnh giới này khác nhau nơi một người và khác nhau nơi mỗi người, nhưng vẫn một tánh thấy đang thấy. Nó thấy bốn cảnh giới của sự sống chết, nhưng nó không thay đổi theo cái được thấy, nên nó vốn là giải thoát. Cái được thấy có ở khắp nơi, nên tánh thấy ở khắp tất cả chỗ. Đây là chỗ Kinh nói: “ Tánh giác duyên khắp mười phương thế giới, lặng trong thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt” .

Các tướng thì có nhân duyên, có tự nhiên. Để thoát khỏi các tướng nhân duyên và tự nhiên này người tu hành phải trở về nguồn của mọi cái thấy. Nguồn đó là ánh sáng căn bản, ở chỗ khác được gọi là tịnh quang, quang minh. Nguồn tịnh quang ấy không có chỗ nào không có, không có thời nào không có, và duyên với cái gì thì hiện ra nơi cái ấy.

………………………………….

3. CHỈ THẲNG TÁNH THẤY.

Thế nên, A Nan, nay ông phải biết, khi thấy sáng thì tánh thấy chẳng phải là sáng, khi thấy tối thì tánh thấy chẳng phải là tối, khi thấy hư không tánh thấy chẳng phải là hư không, khi thấy ngăn bít tánh thấy chẳng phải là ngăn bít.

Bốn nghĩa đã thành tựu, ông lại nên biết, khi thấy mà có tướng thấy, cái thấy đó chẳng phải là tánh thấy. Cái thấy mà do lìa tướng thấy, đó là tánh thấy siêu việt, không gì đạt đến được. (Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập).
Làm sao nói được các tướng nhân duyên, tự nhiên và hòa hợp ?

………………………………..

Thấy sáng, tối, thông, bít thì tánh thấy chẳng phải sáng, tối, thông, bít. Khi thấy sáng mà biết tánh thấy chẳng phải là sáng, đó là kinh nghiệm tánh thấy. Khi thấy tối mà biết tánh thấy chẳng phải là tối, đó là kinh nghiệm tánh thấy.

Tánh thấy thoát khỏi mọi chủ thể thấy và mọi đối tượng được thấy. Trong nó không có chủ thể thấy nào cả và đối tượng được thấy nào cả.

Cho nên, khi thấy mà có tướng thấy, có người thấy và cảnh được thấy, đó chẳng phải là tánh thấy. Cái thấy lìa tất cả mọi tướng thấy, mọi người thấy và mọi cảnh được thấy, cái thấy ấy không tướng gì có thể đạt đến được, cho nên hằng hằng không ô nhiễm, đây là tánh thấy siêu việt.

Vì không tướng gì có thể đạt đến được, nơi nó mọi tướng đều tan rả, kể cả tướng tu hành, tướng thiền định, tướng trí huệ, tướng ba la mật. Cho nên nó là không tu, không chứng, không trí cũng không đắc, ngoài mọi sanh tử và Niết bàn.

Nếu thấy có tướng bèn có phân biệt. Thấy không tất cả mọi tướng, đó là tánh thấy vô phân biệt.

An trụ trong cái thấy chỉ là thấy mà không thấy riêng cái gì cả, không trụ vào tướng nào cả thì đây là tánh thấy. Ngay lúc đó giải thoát khỏi sanh tử.

………………………………

Các ông là hàng Thanh Văn trí hẹp không thấu rõ, chẳng thể thông đạt thật tướng thanh tịnh. Nay ta khuyên dạy ông hãy khéo tư duy, chớ nên trễ nải trên đường giác ngộ mầu diệu

…………………………………..

Thấy được tánh thấy vắng bặt mọi tướng phân biệt, đó là con đường thấy (Kiến đạo vị) hay thông đạt thật tướng. Không lìa khỏi cái thấy thật tướng này, an trụ liên tục trong đó là con đường tu tập. Cuối
cùng đến Giác ngộ là tánh thấy viên mãn.

Nhưng hãy bắt đầu bằng “ Thấy mà do lìa tướng thấy” , đó là cái gì?

……………………………………..

MỤC NĂM
l. CHỈ RA HAI CÁI VỌNG THẤY.

A Nan bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, như Phật Thế Tôn vì chúng con giảng nói tướng nhân duyên, tự nhiên, các tướng hòa hợp và chẳng hòa hợp, tâm còn chưa khai ngộ, nay lại nghe khi thấy mà có tướng thấy thì chẳng phải là tánh thấy bèn càng thêm mê muội. Cúi mong Phật mở rộng lòng từ, ban cho con mắt đại huệ, khai thị cho chúng con tâm giác sáng tỏ thanh tịnh. Nói xong A Nan buồn khóc cúi lạy, vâng nghe lời dạy.
Khi ấy Thế Tôn thương xót A Nan cùng đại chúng, đang muốn diễn bày đại tổng trì, con đường tu hành vi diệu các tam ma đề, nên mới bảo A Nan rằng: Ông tuy nhớ giỏi nhưng chỉ thêm phần đa văn, đối với xa ma tha quán chiếu vi mật, tâm còn chưa rõ. Nay ông hãy lắng nghe kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt chỉ bày, cũng khiến cho những người hữu lậu ở tương lai được quả Giác ngộ.

………………………………..

Do thói quen (nghiệp) lâu đời nên chúng sanh chúng ta khi nói đến thấy thì phải thấy cái gì. Do thói quen mà thấy có sắc tướng, “mờ tối thành có hư không, trong cái hư không mờ tối ấy, kết cái mờ tối thành sắc, sắc xen lẫn với vọng tưởng…”. Cho nên khi nói “thấy mà chẳng có tướng thấy, đó là tánh thấy” thì sanh nghi ngờ.

Xa ma tha quán chiếu vi mật là chỉ quán vi mật. Chỉ quán vi mật thì mới thấy được sự vọng thấy điên đảo phân biệt Đức Phật sắp chỉ dạy.

……………………………….

CHỈ HAI THỨ VỌNG THẤY.

A Nan, tất cả chúng sanh luân hồi trong thế gian đều do hai cái vọng thấy điên đảo phân biệt. Ngay nơi tâm tánh mà phát sanh, ngay đó mà nghiệp luân chuyển.
Thế nào là hai cái vọng thấy ? Một là vọng thấy biệt nghiệp của chúng sanh. Hai là vọng thấy đồng phận của chúng sanh.

………………………………….

Tánh thấy không có tướng gì để thấy nên hằng hằng không ô nhiễm, hằng hằng giải thoát. Còn sanh tử là do vọng thấy tướng và chạy theo chúng mà thành ra luân chuyển. Biết được bản chất của hai cái vọng thấy này bèn giải thoát.

Thế mới biết sanh tử hay Niết bàn cũng đều từ một cái thấy này.

Tánh thấy là ngay nơi tâm tánh mà không phát sanh, ngay đó mà không luân chuyển để thành nghiệp.

………………………………

Thế nào là vọng thấy biệt nghiệp ?

A Nan, như người thế gian bị bệnh nhặm mắt, ban đêm nhìn đèn sáng, riêng thấy có bóng tròn năm màu bao quanh. Ý ông nghĩ sao ? Cái bóng sáng tròn hiện ra nơi ngọn đèn là sắc tướng của ngọn đèn hay sắc tướng của cái thấy ?

A Nan, nếu sắc tướng này của ngọn đèn thì những người không nhặm mắt sao chẳng cùng thấy, mà chỉ riêng người nhặm mắt mới thấy cái bóng tròn ? Nếu đó là sắc tướng của cái thấy thì cái thấy đã thành sắc tướng thì người nhặm mắt kia thấy bóng tròn thì gọi là gì ?

Lại nữa, A Nan, nếu bóng tròn ấy rời đèn mà riêng có, thì khi nhìn những vật chung quanh như bình phong, màn, bàn ghế cũng phải có bóng tròn hiện ra. Còn nếu rời cái thấy mà riêng có thì lẽ ra chẳng phải mắt thấy. Tại sao chỉ người nhặm mắt mới thấy bóng tròn ?

Thế nên phải biết, ánh sáng thật ở nơi đèn, cái thấy bị bệnh làm ra có bóng tròn. Bóng tròn và cái thấy có bóng tròn đều là bệnh nhặm. Cái thấy được bệnh nhặm thì vốn chẳng bệnh.

Rốt cuộc chẳng nên nói cái bóng tròn ấy là ngọn đèn hay cái thấy, hoặc trong đó chẳng phải đèn hay chẳng phải cái thấy. Ví như mặt trăng thứ hai, chẳng phải mặt trăng thật, cũng chẳng phải là bóng của mặt trăng. Vì sao thế ? Bởi thấy mặt trăng thứ hai là do dụi mắt mà có. Những người trí không nên nói rằng căn nguyên của mặt trăng thứ hai do dụi mắt mà thành là hình tướng hay chẳng phải hình tướng, là lìa cái thấy hay chẳng phải cái thấy.

Bóng tròn do mắt nhặm tạo thành cũng như thế, trong đó muốn gọi cái gì là ngọn đèn, cái gì là cái thấy còn không được, huống hồ phân biệt không phải ngọn đèn hay không phải cái thấy.

…………………………………….

Hiện giờ chúng sanh chúng ta đang thấy tất cả cảnh vật là bóng sáng tròn năm màu do vọng thấy biệt nghiệp tức do nhặm mắt mà có.

Năm màu là năm ấm. Những người không thấy bóng sáng năm màu là những Bồ tát không nhặm mắt, ở các vị tánh thấy không bị ngăn che bởi năm màu vọng thấy.

Cái bóng tròn năm màu chẳng do nơi đèn, chẳng lìa khỏi đèn, chẳng ở nơi cái thấy, chẳng lìa cái thấy. Nó không chỗ có, vô sở hữu ; không thể nắm bất, bất khả đắc, như hoa đốm giữa hư không, như trăng trong nước, như bóng trong gương, như thấy nước nơi dợn nắng…

Cái thấy được bệnh nhặm, thấy được bóng sáng năm màu vốn vô sở hữu, bất khả đắc, như huyễn, cái thấy ấy thì vốn chẳng bệnh. Cái thấy vô sở hữu, bất khả đắc, như huyễn này chính là tánh thấy. Đây là “ như huyễn tam muội” , là một chủ đề chính của kinh này.

Mặt khác, bóng tròn sáng năm màu là từ ánh sáng ngọn đèn mà có, mặt trăng thứ hai là do ánh sáng mặt trăng thật mà có. Thế nên nơi năm màu chúng ta có thể thấy ra nguồn sáng của chúng là ngọn đèn, nơi mặt trăng thứ hai thì nguồn sáng của nó là mặt trăng thật.

Bản tánh của năm màu chính là nguồn sáng của ngọn đèn. Bản tánh của năm uẩn là quang minh, là ánh sáng của chính tánh thấy.

Dầu năm màu hay năm uẩn là vô sở hữu, bất khả đắc, như huyễn, như mống cầu vồng thì chúng vẫn là sự biểu hiện từ ánh sáng căn bản hay tánh thấy. Thế nên, thấy năm màu, thấy năm uẩn là thấy ngay ánh sáng căn bản từ đó chúng được biểu hiện theo biệt nghiệp.

……………………………………

Thế nào là vọng thấy đồng phận ?

A Nan, cõi Diêm Phù Đề trừ biển ra, trong đó đất liền có ba ngàn châu. Châu lớn ở giữa, bao quát từ đông sang tây có hai ngàn ba trăm nước lớn. Ngoài ra các châu nhỏ nằm trong các biển, trong đó có châu đến hai trăm ba trăm nước, hoặc mười, hoặc hai mươi, cho đến ba mươi, bốn mươi, năm mươi nước.

A Nan, nếu trong đó lại có một châu nhỏ chỉ có hai nước mà riêng những người trong một nước cùng chiêu cảm ác duyên, thì tất cả chúng sanh trong nước đó nhìn thấy mọi cảnh không tốt. Hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng khác như vựng, thích, bội, quyết, tuệ, bột, phi lưu, phụ nhĩ, hồng nghê… chỉ nước này thấy, còn chúng sanh bên kia không thấy cũng không nghe.

……………………………………….

Vọng thấy đồng phận là cọng nghiệp do nhiều vọng thấy biệt nghiệp gồm thành. Cùng chung một nghiệp nào thì sẽ thấy chung một nghiệp ấy.

Nhưng cũng chính nơi cái thấy cọng nghiệp này mà người ta nhận biết tánh thấy vốn chằng bệnh, vốn không từng bị nghiệp làm nhiễm ô. Thấy núi thấy sông là cái vọng thấy đồng phận của con người. Còn cái thấy núi, thấy sông… cái thấy không có núi, không có sông… đây là tánh thấy vốn không nghiệp gì làm nhiễm ô được.

Cái thấy mà không có biệt nghiệp và đồng phận, ‘ ‘thấy mà do lìa tướng thấy” , cái thấy ấy chính là tánh thấy.

Nơi hai vọng thấy, thấy biệt nghiệp và đồng phận này, có hai thái độ chọn lựa, hai con đường khác nhau.

Con đường A La Hán là khi biết hoa đốm giữa hư không, ánh sáng năm màu của năm ấm là huyễn, bèn thật chứng huyễn, thật chứng hư không, không còn thấy hoa đốm sanh tử nữa.

Còn con đường Bồ tát thì biết hoa đốm giữa hư không, năm ấm là huyễn, nhưng vì không bỏ chúng sanh để cứu độ họ, cùng chia sẻ số phận vọng thấy của chúng sanh nên vẫn không từ bỏ sanh tử vọng thấy. Chỉ có điều khác với chúng sanh là vị này biết hoa đốm, năm ấm là vọng thấy, là như huyễn. Cho nên con đường Bồ tát là không chứng huyễn, chứng mộng, mà chứng như huyễn, như mộng. Do đó như huyễn tam muội chính là mạng sống của Bồ tát trong sanh tử.

Vị A La Hán học Không và chứng Không. Vị Bồ tát học Không mà chẳng chứng Không, Học Không Bất Chứng, như đầu đề một phẩm trong kinh Đại Bát Nhã. Học Không bất chứng là Như huyễn tam muội.

…………………………………….

MỤC SÁU
TÁNH THẤY VỐN KHÔNG Ô NHIỄM, CHẰNG
PHẢI HÒA HỢP CHẲNG PHẢI KHÔNG HÒA HỢP.

A Nan, nay ta vì ông lấy hai sự việc ấy lui tới, kết hợp mà chỉ rõ .
A Nan, như cái vọng thấy biệt nghiệp của chúng sanh kia, thấy nơi ngọn đèn hiện ra bóng tròn, tuy hiện giống như tiền cảnh mà rốt cuộc là do bệnh nhặm của người ấy tạo thành. Nhặm thì mắt lòa, chẳng phải có sắc tướng được tạo ra.

Nhưng cái thấy được mắt nhặm thì cái thấy ấy không có lỗi lầm.
So với ông hôm nay dùng con mắt xem núi sông, cõi nước và các chúng sanh, đều là do cái thấy bị bệnh từ vô thủy tạo thành. Cái thấy và cái được thấy giống như có cảnh trước mắt, nguyên là tánh giác sáng tỏ của ta có bệnh nhặm mà thành năng kiến sở kiến.

 

Những sự thấy biết đều là bệnh nhặm, còn bản giác minh tâm biết các duyên thì chẳng phải bệnh. Cái biết và cái được biết đều là bệnh nhặm, còn cái bản giác thì không ở trong bệnh nhặm. Đây mới thật là tánh thấy hằng thấy, làm sao còn gọi được là thấy, nghe, hay, biết ?
Thế nên, nay ông thấy ta và ông cùng mười loại chúng sanh thế gian đều là cái thấy bị nhặm, chứ chẳng phải cái thấy được bệnh nhặm. Tánh thấy chân thật kia vốn chẳng hề nhặm nên không gọi là thấy nữa.

…………………………….

Thấy mọi thứ ta, người, thế giới đều là cái thấy bị bệnh nhặm phân đôi chủ khách tạo thành. Cái thấy ấy lấy một trung tâm là cái tôi và những cái khác với cái tôi, ở ngoài cái tôi thì gọi là cái khác. Đây là cái thấy bị bệnh nhặm từ vô thủy.

Nhưng cái thấy bị bệnh nhặm ấy luôn luôn ở trong, hay nguyên là, tánh giác sáng tỏ, bản giác minh tâm chưa từng có năng sở. Như hoa đốm giữa hư không luôn luôn ở trong, hay nguyên là, hư không chưa từng có hoa đốm.

Vì mọi sự nguyên là tánh thấy, vốn chẳng hề có bệnh nhặm, cho nên khi thấy mà không có bệnh nhặm, không có trung tâm và những cái ngoài trung tâm, không có cái thấy và cái được thấy, ngay khi ấy cái thấy bị bệnh nhặm hoàn nguyên lại cái thấy chân thật hay tánh thấy.

Khi hoàn nguyên lại được tánh thấy vốn chẳng hề nhặm thì lúc ấy cũng chẳng gọi là thấy nữa, vì mọi tướng thấy hoàn toàn dứt bặt.

Thấy mà không có một trung tâm và những vật ở ngoài trung tâm ấy, thì đây là tánh thấy không trung tâm cũng không đối tượng.

Đây chính là “ xa ma tha quán chiếu vi mật” ngay tại đây và bây giờ.

…………………………………..

A Nan, cái vọng thấy đồng phận của chúng sanh so với cái vọng thấy biệt nghiệp của một người thì người trong một nước kia cũng đồng như một người bị bệnh mắt

Người thấy bóng tròn là do mắt nhặm hư vọng sanh ra, còn các chúng sanh kia đồng thấy những điềm không lành hiện ra, là do nghiệp chướng xấu ác đồng phận sanh khởi. Cả hai đều do vọng thấy từ vô thủy sanh ra.

Như vậy ba ngàn châu trong cõi Diêm Phù Đề, cùng bốn biển lớn, thế giới Ta Bà, cho đến các cõi hữu lậu trong mười phương cùng các chúng sanh đồng là diệu tâm giác minh vô lậu, nhưng do cái bệnh duyên hư vọng tạo thành thấy nghe hay biết hòa hợp vọng sanh, hòa hợp vọng tử.

Nếu xa lìa các bệnh duyên hòa hợp và chẳng hòa hợp này, tức thì diệt trừ trở lại các nhân sanh tử, đây là tánh giác ngộ vốn viên mãn chẳng sanh chẳng diệt, bản tâm vốn giác thanh tịnh thường trụ vậy.

…………………………………

Mình, người, chúng sanh, thế giới đều là vọng thấy biệt nghiệp và đồng phận, do bệnh mắt nhậm từ vô thủy. Bệnh nhặm vọng thấy là cái thấy phân biệt tạo thành mình, người, chúng sanh, thế giới. Tất cả mọi cái có đều do tâm phân biệt, cái thấy phân biệt mà có. Cho nên trừ bỏ được cái thấy phân biệt do nghiệp thì bệnh vọng thấy tiêu tan, cái xưa nay vốn là như thế hiện ra.

Mình, người, chúng sanh, thế giới mười phương đồng là diệu tâm giác minh vô lậu, đồng là tánh giác ngộ vốn viên mãn chẳng sanh chẳng diệt. Tánh giác ấy xưa có, nay có, mai có, chưa từng không hiện hữu, chưa từng lìa khỏi chúng sanh một niệm.

Thế nhưng trong một niệm căn bệnh phân biệt khởi lên, bất giác khởi lên, thành ra vọng thấy, vọng nghe, vọng hay vọng biết. Những cái vọng thấy, vọng nghe, vọng nghĩ, vọng biết này, những phân biệt hư vọng này hòa hợp tạo thành sanh tử hư vọng. Pháp giới nhất chân trở thành một trường sanh tử khổ đau do phân biệt.

Cũng trong một niệm không phân biệt, giác khởi lên, cái vọng thấy phân biệt, vọng nghe phân biệt, vọng nghĩ phân biệt…dừng lại, tánh thấy hay tánh giác bổn nhiên lộ bày. Chỉ một niệm ngay đây, hiện giờ không phân biệt thì tánh thấy lộ bày. Đây là một vị giải thoát, một vị Giác ngộ.

Thực sự và trực tiếp thấy được tánh thấy không phân biệt này, đây là cái thấy được nền tảng, thấy được Pháp thân, tức Kiến đạo vị.

Rồi trên tánh thấy nền tảng không phân biệt này, có con đường tu tập tịnh hóa các tập khí phân biệt để đi đến quả. Cái thấy được nền tảng là thấy được tấm gương tâm vốn giác ngộ, viên mãn, chẳng sanh chẳng diệt. Con đường tu tập là đưa những hình bóng trong gương trở lại gương, bóng thành gương bao nhiêu, tướng thành tánh bao nhiêu thì sự chứng biết tấm gương rộng tới đó.

Con đường giác ngộ chia ra những cấp độ hay những địa. Những cấp độ này được thiết lập tùy theo cái vọng thấy phân biệt tiêu tan được bao nhiêu, bóng tiêu tan được bao nhiêu, và do đó tánh thấy hiển lộ được bao nhiêu, gương hiển bày được bao nhiêu.

……………………………………

A Nan, tuy trước đây ông đã ngộ bản giác diệu minh chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên, nhưng còn chưa rõ cội nguồn của tánh giác ấy vốn chẳng phải hòa hợp sanh, chẳng phải không hòa hợp.

………………………………..

Cội nguồn của tánh giác ấy chẳng phải hòa hợp sanh, nghĩa là cội nguồn tánh giác là vô sanh; nhưng chẳng phải không hòa hợp, nghĩa là cội nguồn tánh giác vô ngại đối với sanh.

Hãy tham thiền cho đến tận cội nguồn vô sanh mà không ngại đối với sanh này.

…………………………………..

Như Lai nay lại lấy tiền trần để hỏi ông. Nay ông còn lấy tất cả tính nhân duyên hòa hợp của vọng tưởng thế gian mà tự nghi lầm rằng chứng tâm giác ngộ là do hòa hợp mà phát khởi.

Vậy nay tánh thấy thanh tịnh mầu diệu của ông là cùng hòa với sáng hay hòa với tối ? Là cùng hòa với thông hay hòa với bít ? Nếu hòa với sáng mà nay ông đang thấy sáng thì cái sáng hiện tiền này xen lẫn với cái thấy ở chỗ nào ? Nếu có thể phân biệt được tướng của cái thấy, thì hình tượng của cái xen lẫn là thế nào ?

Nếu cái sáng chẳng phải là cái thấy thì làm sao thấy được cái sáng ? Nếu cái sáng tức là cái thấy thì làm sao thấy được cái thấy ?

Nếu cái thấy cùng khắp thì còn còn chỗ nào để hòa được với cái sáng ? Nếu cái sáng đầy khắp thì lẽ ra không hòa được với cái thấy. Cái thấy đã khác với cái sáng thì khi xen lẫn tất phải làm mất tính cách của cái sáng. Cái thấy xen vào làm mất tính cách của cái sáng mà nói hòa với cái sáng là không đúng nghĩa.

Đối với cái tối, cái thông cái bít lại cũng như vậy.

…………………………………….

Trước đây ngài A Nan đã ngộ bản giác diệu minh chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên. Nhưng nhân duyên và tự nhiên chỉ là sự chấp tướng ở phần thô, nên còn chưa rõ, sự chấp tướng, ở phần tế, tức là hòa hợp và không hòa hợp.

Cả đoạn kinh này nói về không thể có chuyện hòa, vì tánh giác đâu phải là một tướng dù vi tế, để hòa với một tướng khác. Với cái Vô tướng Vô sanh thì không thể nói chuyện hòa hợp hay chẳng hòa hợp.

…………………………………..

Lại nữa, A Nan, hiện nay tánh thấy thanh tịnh mầu diệu của ông hợp với cái sáng, hợp với cái tối, hợp với cái thông, hay hợp với cái bít ? Nếu hợp với cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái thấy đó không hợp với cái tối thì làm sao thấy được cái tối ? Nếu khi thấy tối mà không hợp với cái tối thì khi sáng, vì cũng không hợp với cái sáng nên lẽ ra cũng không thấy được cái sáng. Đã không thấy được sáng thì làm sao nói được hợp với cái sáng và rõ biết cái sáng chẳng phải là tối.

Đối với cái tối, cái thông, cái bít, cũng lại như vậy.

……………………………………

Hòa không được, hợp cũng không được. Bởi vì như ở trên nói, chớ nghi lầm rằng chứng tâm giác ngộ là do hòa hợp mà phát khởi, tâm giác ngộ không do hòa hợp mà phát khởi, vì tâm giác ngộ là vô sanh. Vốn vô sanh thì có gì để nói là hòa, là hợp?

…………………………………..

A Nan bạch Phật : Bạch Thế Tôn, nay con suy nghĩ, tâm vốn giác ngộ mầu diệu này, cùng các duyên trần và các tâm niệm nhớ nghĩ mà không hòa hợp chăng ?

Phật dạy : Nay ông lại nói tánh giác chẳng phải hòa hợp, thì Ta lại hỏi ông, nếu tánh thấy mầu diệu này chẳng hòa hợp, là chẳng hòa hợp với cái sáng, chẳng hòa hợp với cái tối, chẳng hòa hợp với cái thông, hay chẳng hòa hợp với cái bít ?

Nếu chẳng hòa với cái sáng, thì giữa cái thấy và cái sáng ắt phải có ranh giới. Ông hãy xem kỹ, nơi nào là cái sáng, nơi nào là cái thấy ? Ở cái thấy, ở cái sáng, nơi nào là ranh giới ? A Nan, nếu bên cái sáng ắt không có cái thấy thì hai cái chẳng tiếp xúc được với nhau. Cái thấy tự chẳng biết tướng sáng ở đâu, thì ranh giới làm sao thành lập ? Đối với cái tối, cái thông, cái bít cũng là như vậy.

Lại nếu tánh thấy mầu diệu này không hòa hợp, là chẳng hợp với cáỉ sáng, chẳng hòa hợp với cái tối, chẳng hòa hợp với cái thông, hay chẳng hòa hợp với cái bít ? Nếu chẳng hợp với cái sáng thì cái thấy và cái sáng trái nghịch nhau, như lỗ tai và cái sáng, không tiếp xúc nhau được. Nếu vậy thì cái thấy không biết tướng sáng ở đâu, làm sao phân biệt nghĩa hợp hay không hợp ? Đối với cái tối, cái thông, cái bít cũng lại như vậy.

………………………………….

Ở trên là không hòa hợp, ở đây là chẳng phải không hòa hợp, nếu tánh thấy không hòa hợp được với tiền trần, tánh thấy làm sao thấy cái gì được, cho nên tánh thấy cũng chẳng phải không hòa hợp.

Lấy thí dụ tấm gương. Tấm gương không hòa hợp với các bóng trong gương : các bóng trong gương chẳng thể ‘dính’ vào gương. Nhưng cũng chẳng phải không hòa hợp : tấm gương không phải không có gì, tấm gương để cho các bóng hiện hình. Và các bóng tuy có, nhưng như huyễn.

Một thí dụ khác là mặt trăng trong nước. Nước không hòa hợp với mặt trăng : mặt trăng không ở trong nước. Nước chẳng phải không hòa hợp với mặt trăng : nước có bóng trăng trong đó. Tình trạng không hòa hợp và chẳng phải không hòa hợp này là bóng trăng như huyễn, không thể đụng chạm, nắm bắt.

………………………………………

MỤC BẢY
GỒM THU VỀ NHƯ LAI TẠNG.

A Nan, ông còn chưa rõ các tướng huyễn hóa của tiền trần, ngay chỗ xuất sanh, ngay đó diệt tận. Huyễn vọng nên gọi là tướng, chứ thật tánh của chúng là thể giác ngộ sáng tỏ mầu diệu.
Như thế cho đến năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ cho đến mười tám giới, nhân duyên hòa hợp thì hư vọng có sanh, nhân duyên tách lìa thì hư vọng gọi là diệt.
Chẳng biết được rằng sanh, diệt, đến đi vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh viên mãn khắp cả, bất động, sáng tỏ, mầu diệu, thường trụ. Trong tánh chân thường này mà cầu cho ra sự đến đi, mê ngộ, sanh tử, hoàn toàn không chỗ được (vô sở đắc).

………………………………….

Từ vô thủy đến vô chung, chưa từng có một chúng sanh nào dầu đọa lạc đến đâu, ra khỏi Như Lai tạng diệu chân như tánh này; chưa từng có một hạt bụi nào ra khỏi Như Lai tạng diệu chân như tánh này.

Không thể có một con đường nào, một pháp môn nào, một loại thiền định quán tưởng nào, một tông phái nào đi ngoài Nền tảng Như Lai tạng diệu chân như tánh này. Nó là Nền tảng, Con đường và Quả của tất cả Phật giáo.

Nó là Pháp thân vốn sẳn của mỗi chúng sanh. Nó vốn là :

Viên mãn : từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất, cho nên không cần thêm bớt gì, tạo tác gì, loại bỏ gì, tu hành gì, chứng đắc gì.

Khắp cả : không thời gian nào, không gian nào không có nó.

Sáng tỏ (minh) : nó là ánh sáng căn bản, mà tất cả mọi sự đều hiện hình trên đó.

Mầu diệu (diệu) : nó không là gì cả mà là tất cả.

Bất động, thường trụ : sanh tử, đến đi, mê ngộ chưa từng có thật trong nó.

Mọi sinh hoạt hằng ngày của mỗi chúng ta đều diễn ra trên và trong Như Lai tạng diệu chân như tánh này.

Trong nó, mọi tướng ta, người, chúng sanh, thế giới đều là huyễn hóa hư vọng : ngay chỗ xuất sanh, ngay đó diệt tận. Ngay chỗ xuất sanh, ngay đó diệt tận là chưa kịp sanh ra, hình như chưa sanh mà đã diệt. Ngay chỗ xuất sanh ngay đó diệt tận là tự giải thoát trong từng khoảnh khắc. Ngay chỗ xuất sanh ngay đó diệt tận đích thực là vô sanh.

Diệt tận là diệt hoàn toàn, không để lại dấu vết gì. Trong một niệm, khi sanh là khi diệt, sanh diệt đi cùng nhau trong từng niệm, nên các kinh khác gọi là “ niệm niệm sanh diệt” . Vì niệm niệm sanh
diệt, niệm sanh tức là niệm diệt, nghĩa là sanh mà thật là vô sanh, nên các tướng ấy giải thoát trong từng niệm niệm. Các tướng vốn là giải thoát vì chúng là huyễn hóa hư vọng.

Cái thấy bệnh, cái thấy phân biệt tạo ra các tướng huyễn hóa hư vọng, nhưng thật ra, bản tánh của chúng, nền tảng của chúng là Như Lai tạng diệu chân như tánh. Trong nền tảng luôn luôn hiện diện này, luôn luôn thường trụ bất động này, tất cả các tướng là tánh, không có sự đến đi, mê ngộ, sanh tử.

Nền tảng Như Lai tạng cần phải thấy, đó là cái Thấy. Không lìa khỏi cái thấy chân chánh này, đó là Thiền định, sống với thân, khẩu, tâm chìm ngập, hòa lẫn, làm một với cái thấy thì gọi là Hạnh. Cuối
cùng đến Quả, tức là Như Lai tạng vốn hoàn toàn giác ngộ.

………………………………

I. GỒM THU NĂM ẤM VỀ NHƯ LAI TẠNG.

A Nan, thế nào là năm ấm vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh?

………………………………

Tu hành là đưa năm ấm trở về bản tánh của chúng là Như Lai tạng diệu chân như tánh. Bắt đầu là giảng về tánh thấy, khi đã có được cái thấy thanh tịnh thì chính cái thấy này thấy được bản tánh của năm ấm là Như Lai tạng diệu chân như tánh. Thấy như thế thì tướng tức là tánh, tánh tức là tướng, sanh tử tức Niết bàn, Niết bàn là sanh tử.

……………………………………

1. Thu sắc ấm

A Nan, ví như có ngưòi dùng con mắt thanh tịnh nhìn hư không sáng trong, chỉ thấy một khoảng không trong vắt, tuyệt chẳng có gì. Người ấy vô cớ chẳng nháy mắt nhìn sững hồi lâu phát mỏi, bèn nơi hư không riêng thấy hoa đốm lăng xăng, lại thấy có tất cả những tướng hư giả loạn xạ.
Nên biết sắc ấm cũng lại như vậy.
A Nan, các hoa đốm lăng xăng ấy chẳng phải từ hư không mà đến, chẳng phải từ con mắt mà ra. Thật vậy, A Nan, nếu từ hư không đến, đã từ hư không đến thì phải trở vào hư không. Nếu có ra vào thì chẳng phải là hư không. Hư không mà chẳng trống rỗng thì chẳng dung chứa tướng hoa đốm kia sanh diệt, như thân thể A Nan chẳng thể dung chứa một A Nan nào nữa.

 

Nếu hoa đốm từ con mắt mà ra, đã từ mắt ra thì phải trở vào trong mắt. Nếu hoa đốm từ con mắt mà ra thì lẽ ra nó phải có cái thấy. Nếu có cái thấy thì khi đã ra làm hoa đốm giữa hư không, khi trở lại phải thấy được con mắt. Nếu nó không có cái thấy, thì khi ra đã làm mờ hư không, khi trở về phải làm mờ con mắt.

 

Lại nữa, khi thấy hoa đốm lẽ ra con mắt phải không lòa, chứ sao khi thấy hư không sáng sạch thì mới gọi là con mắt trong sáng?
Thế nên phải biết sắc ấm là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………….

Sắc ấm mà chúng ta thấy trước mắt đây với vô vàn hình tướng đều do vọng thấy biệt nghiệp và vọng thấy đồng phận. Cái vọng thấy này là do “ nhìn lâu phát mỏi” . Bệnh mỏi lòa này không có nguyên nhân, không từ con mắt, không từ hư không, không từ vật trước mắt.

Sắc ấm như hoa đốm loạn xạ giữa hư không, chẳng phải từ hư không đến, chẳng phải từ con mắt ra, chúng chẳng từ đâu đến mà cũng chẳng đi về đâu. Chúng không có tự tánh nên như huyễn, chúng không đến không đi, không sanh không diệt, không tăng không giảm…. Chúng là tánh Không vô sở hữu, bất khả đắc. Và tánh Không cũng là tánh Như (Kinh Đại Bát Nhã).

Thấy được sắc ấm như hoa đốm giữa hư không, thì sắc ấm hay hoa đốm chính là hư không. “ Sắc tức là Không” , sắc ấm hoa đốm chính là Như Lai tạng diệu chân như tánh.

………………………………….

2. Thu thọ ấm.

A Nan, ví như có người tay chân yên ổn, thân thể điều hòa, bỗng như quên mình, không có gì là thuận nghịch. Người này vô cớ lấy hai tay xoa vào nhau giữa hư không thì trong hai bàn tay vọng sanh các tướng trơn, rít, nóng lạnh. Nên biết thọ ấm cũng lại như vậy.
A Nan, các cảm thọ giả huyễn do xúc chạm kia chẳng từ hư không mà đến, chẳng từ hai bàn tay mà ra. Thật vậy, A Nan, nếu từ hư không mà đến thì đã sanh cảm thọ nơi bàn tay, sao lại không sanh cảm thọ nơi thân ? Chẳng lẽ hư không biết chọn lựa chỗ để xúc chạm ?

Nếu từ bàn tay ra thì đáng lẽ chẳng đợi hai bàn tay hợp lại. Lại nữa, nếu từ bàn tay mà ra thì khi hai tay hợp lại mới biết có cảm thọ, đến khi hai tay rời nhau thì cảm thọ phải trở vào. Vậy cánh tay, cổ tay, xương tủy lẽ ra phải biết tung tích khi vào của cảm thọ. Rồi phải có tâm hay biết, biết ra biết vào, cho đến phải biết có một vật gì qua lại trong thân. Đâu cần chờ đến hai tay hợp lại mới gọi là cảm xúc ?
Thế nên phải biết, thọ ấm là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………

Cảm thọ là do sự tiếp xúc giữa thân và vật (sắc). Hơn nữa còn phải có tâm hay biết sự tiếp xúc ấy. Như vậy cảm thọ là do nhiều duyên tạm hợp lại mà có, nên là vô tự tánh. Cảm thọ thì vô tự tánh nên như huyễn.

Sắc đã hư vọng, như hoa đốm giữa hư không, thì cảm thọ về sắc cũng là hư vọng, chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

Nhìn rộng ra, cuộc đời mỗi người chúng ta chỉ là một đống chồng chất những kinh nghiệm rời rạc, không liên tục, nghĩa là những cảm thọ về chính mình, về người khác, về thế giới. Quan sát kỹ, cuộc đời ấy cũng chỉ là những cảm thọ chẳng phải là ta, chẳng phải của ta, vô tự tánh như những hoa đốm giữa hư không.

Quan sát phân tích đến tận cùng, chúng ta phải được giải thoát, vì những cảm thọ tạo ra cuộc đời chúng ta không thật có. Khi không còn chấp cho rằng những bóng trong gương là hoàn toàn thật, chúng ta thấy ra tấm gương là Như Lai tạng diệu chân như tánh.

………………………………….

3. Thu tưởng ấm.

A Nan, ví như có người khi nghe nói đến me chua thì trong miệng chảy nước miếng. Khi nghĩ đến đứng trên vực núi thì lòng bàn chân cảm thấy rờn rợn. Nên biết tưởng ấm lại cũng như vậy.
A Nan, câu chuyện me chua như thế chẳng từ trái me sanh ra, chẳng phải từ miệng vào. Thật vậy, A Nan, nếu do trái me sanh ra thì trái me tự nói lấy, đâu chờ đến người nói. Nếu từ miệng vào thì miệng tự nghe lấy, đâu cần đến tai nghe. Nếu chỉ có tai nghe thì nước miếng sao không chảy ra từ lỗ tai. Việc nghĩ tưởng đứng trên vực núi cũng lại như vậy.

Thế nên phải biết, tưởng ấm là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

……………………………………

Nghĩ tưởng đến me chua thì nước miếng ứa ra, nghĩ tưởng đến bờ vực thì chân thấy rờn rợn. Một cái tưởng để thành một kết quả thì phải có đối tượng và hành động tưởng ấy phải tác động lên nhiều tác nhân khác. Tưởng do nhiều nhân duyên sanh ra, nó không thể tự sanh, cũng không phải từ cái khác sanh, cũng không phải vừa tự sanh vừa cái khác sanh. Thế nên nó là tánh Không, vô tự tánh, như mống cầu vồng giữa trời, không thề cầm nắm.

Quán sát phân tích đến rốt ráo, chúng ta sẽ giải thoát, khi thật thấy trực tiếp các tưởng là tánh Không. Tánh Không là một phương diện của Như Lai tạng diệu chân như tánh. Thấy được tánh Không đến đâu thì Như Lai tạng diệu chân như tánh rờ rỡ lộ ra đến đó.

Khi một tưởng khởi lên, hãy đưa nó về nguồn Như Lai tạng diệu chân như tánh. Đây là tu trong từng tưởng niệm.

……………………………….

4. Thu hành ấm

A Nan, ví như dòng sông chảy xiết, các làn sóng nối tiếp nhau, lớp trước lớp sau chẳng vượt nhau. Nên biết hành ấm cũng lại như vậy.
A Nan, tánh chảy như vậy chẳng nhân hư không mà sanh, chẳng nhân nước mà có, cũng chẳng phải tánh của nước, cũng chẳng lìa hư không và nước. Thật vậy, A Nan, nếu nhân hư không mà sanh thì mười phương hư không vô tận sẽ thành dòng nước vô tận, thế giới tự nhiên đều bị chìm đắm. Nếu nhân nước mà có thì dòng sông chảy xiết ấy tánh không phải là nước nữa, và hiện nay có thể chỉ ra tướng của nước và tướng của dòng chảy khác nhau. Nếu dòng chảy tức là tánh nước, thì khi nước đứng lặng đáng lẽ không còn là thể của nước nữa.

Nếu dòng chảy lìa hư không và nước mà có, thì không có cái gì ngoài hư không cả, và ở ngoài nước không thể có dòng nước.
Thế nên phải biết hành ấm là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………….

Kinh Giải Thâm Mật nói :
Thức A đà na rất sâu, vi tế
Tất cả chủng tử như dòng nước xiết
Như Lai không nói cho người phàm ngu
E họ phân biệt chấp làm bản ngã.

Thức A đà na hay A lại da thức rất sâu, vi tế, tất cả chủng tử như dòng nước xiết, đây là hành ấm.

Dòng nước xiết ấy không nhân hư không, nhân nước, cũng chẵng phải bản chất của nước mà có, cũng chẳng lìa hư không, lìa nước, lìa bản chất của nước mà có. Nó là duyên sanh, không sanh ra từ một cái gì, và tất cả các duyên của nó hợp lại cũng chẳng thành được nó.

Quan sát kỹ càng thấu suốt sự không từ đâu sanh ra, sự không thật của dòng thức A lại da, bèn chứng được dòng thức A lại da là vô sanh. Vì dòng A lại da là vô sanh, nên xưa nay chỉ có Như Lai tạng diệu chân như tánh vượt khỏi sanh và vô sanh.

………………………………..

5. Thu thức ấm.

A Nan, ví như có người lấy một cái bình tần già, bịt hai đầu lại, trong đó đầy hư không, rồi đi xa ngàn dặm, đem qua nước khác. Nên biết thức ấm cũng lại như vậy.
A Nan, hư không ấy chẳng phải từ phương kia lại, cũng chẳng phải từ phương này vào. Thật vậy, A Nan, nếu hư không từ phương kia lại, thì trong cái bình đã đựng hư không đem đi, ở chỗ cũ lẽ ra phải thiếu một bình hư không. Nếu hư không từ phương này vào, thì khi mở miệng bình đổ ra, phải thấy hư không đi ra.
Thế nên phải biết thức ấm là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

……………………………………

Hành ấm nhỏ nhiệm, vi tế nhưng có chuyển động nhanh nên được ví với dòng nước chảy xiết. Thức ấm khó thấy hơn, vi tế hơn nên được ví như hư không trong cái bình.

Hư không trong bình là thức ấm. Thức ấm như hư không trong cái bình không biết mình là một với hư không ở ngoài (sở tri chướng) rồi do những phiền não tham, sân, si…. (phiền não chướng) phóng chiếu ra sanh tử như hoa đốm, đều là vọng tạo, vọng thấy. Nhưng tánh nó như hư không cho nên những cái vọng tạo, vọng thấy ấy là như hoa đốm giữa hư không. Khi quán chiếu thấy rõ nó như hư không thì nó cũng không đi không đến, không tăng không giảm, không dơ không sạch…như hư không. Khi biết hư không trong bình và hư không ở ngoài là một, lúc ấy bèn giải thoát.

Thật sự có một cái bình nào nhốt được hư không, có một cái thân nào nhốt được tâm diệu minh toàn khắp, có một hoa đốm nào nhốt được hư không ?

Thấy rõ chẳng bóng nào nhốt được gương, chẳng sanh tử nào nhốt được tánh giác, bèn ngay đó thấy bóng và sanh tử đều hư vọng, như huyễn, như mộng.

Bát Nhã Tâm Kinh nói, “ chiếu kiến năm uẩn đều Không, thoát tất cả khổ ách” . Một uẩn trở về bản tánh của nó là tánh Không, thì bốn uẩn kia cũng đồng thời tan biến. Vậy nên, tu hành là quán chiếu trong từng niệm niệm một uẩn, như một vài ví dụ trong kinh đã gợi ý.

Quán chiếu cho đến khi sanh tử hoa đốm tiêu tan, tất cả tướng đều tan vào Như Lai tạng diệu chân như tánh mới hoàn tất con đường tu học.

Hết Quyển 2.

 

 

 

SHARE:

Để lại một bình luận