QUYỂN BA:

SHARE:

QUYỂN BA

II. THU SÁU NHẬP VỀ NHƯ LAI TẠNG.

1. Thu nhãn nhập
Lại nữa, A Nan, thế nào là sáu nhập vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh ?
A Nan, tức nơi con mắt kia nhìn sững sanh ra mỏi lòa. Cả con mắt và sự mỏi lòa đồng là Bồ đề (giác ngộ) do nhìn chăm chăm mà phát sanh tướng mỏi lòa.

Nhân nơi hai tướng vọng trần sáng và tối phát sanh cái thấy ở trong, thu nạp các trần cảnh gọi là cái thấy. Cái thấy này rời ngoài hai trần sáng tối, rốt ráo không có tự thể.
Thật vậy, A Nan, phải biết cái thấy ấy chẳng từ nơi sáng, nơi tối mà đến, chẳng phải từ căn mắt mà ra, chẳng từ hư không mà sanh. Vì sao thế ? Nếu từ cái sáng đến thì khi tối đã theo cái sáng mà diệt, lẽ ra không thấy được cái tối. Nếu từ cái tối đến thì khi sáng đã theo cái tối mà diệt, lẽ ra không thấy được cái sáng. Nếu từ con mắt sanh, hẳn không có cái sáng cái tối. Như vậy cái thấy vốn vô tự tánh.
Nếu từ hư không ra thì khi nhìn ở trước thấy trần cảnh, quay về phải thấy con mắt. Lại nữa, hư không tự thấy thì có liên quan gì đến nhãn nhập của ông ?

Thế nên phải biết, nhãn nhập là hư vọng, vốn chẳng phái tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

………………………………………..

Trước khi mắt nhìn sững thì chỉ một vị “ đồng là Bồ đề” . Sau khi nhìn sững thì có mỏi lòa, nhưng sự mỏi lòa này và con mắt đều chỉ là một vị “ đồng là Bồ đề” , không có gì khác với Bồ đề. Hãy tham thiền về “ đồng là Bồ đề” này đề thấy sự thu nhãn nhập về Như Lai tạng là thế nào.

ở trước sắc ấm là vô tự tánh, hư vọng, ở đây nhãn nhập, hay nhãn căn và cái thấy của nó cũng là vô tự tánh, hư vọng.

Không từ đâu sanh, không từ trần cảnh, không từ con mắt, không từ hư không, không từ đâu cả, nên là vô sở hữu, bất khả đắc, là tánh Không.

Cái thấy hư vọng của con mắt là do sự mỏi lòa. Sự mỏi lòa, tức vô minh phân biệt, và con mắt đồng là Bồ đề hay giác ngộ. Thế thì vô minh cũng không thật có, chưa từng có: “ không có vô minh cũng không có hết vô minh” {Bát Nhã Tâm Kỉnh). Thế thì hư vọng cũng nguyên là hư vọng, muốn trừ diệt cái gì?

Ngay đây thấy được từ xưa nay chưa từng lìa khỏi Bồ đề, xưa nay vẫn ở trên bờ bên kia, chưa từng dời một chút.

……………………………………….

2. Thu nhĩ nhập.

A Nan, ví như có ngưòi lấy hai ngón tay bịt chặt lỗ tai, do căn tai mỏi, trong đầu hóa ra có tiếng. Cả lỗ tai và cái mỏỉ mệt đồng là Bồ đề, do lặng chăm mà phát sanh tướng ù mỏi. Nhân nơi hai thứ vọng trần động và tĩnh phát ra cái nghe ở trong, thu nạp trần tượng ấy mà gọi là cái nghe. Cái nghe ấy rời haỉ trần động tĩnh rốt rảo không có tự thể.
Thật vậy, A Nan, phải biết cái nghe ấy chẳng từ nơi động, nơi tĩnh mà đến, chẳng phải từ căn tai mà ra, chẳng phải từ hư không mà sanh. Vì sao thế ? Nếu từ cái tĩnh đến thì khi động phải theo cái tĩnh mà diệt, lẽ ra không nghe được cái động. Nếu từ cái động đến thì khi tĩnh sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không nghe được cái tĩnh. Nếu từ căn tai sanh hẳn không có động tĩnh thì cái nghe như vậy vốn vô tự tánh. Nếu từ hư không ra thì hư không đã có tánh nghe, bèn chẳng phải là hư không nữa. Lại nữa, hư không tự nghe thì có liên quan gì đến nhĩ nhập của ông ?

Thế nên phải biết, nhĩ nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

………………………………

Căn tai phải nương vọng trần động tĩnh, động tĩnh lại nương hư không, nhưng căn tai không từ riêng cái nào mà có. Tìm suốt cả trần gian này cũng chẳng có một căn tai nào đứng riêng độc lập một mình.

Chỗ nào tạm hội đủ nhân duyên thì có nghe, thế thôi.

Nó vô tự tánh, nghĩa là chỗ nào cũng không có nó mà chỗ nào cũng có nó. Nên nó là sự lặng chăm sanh tướng ù mỏi của Bồ đề. Rộng ra, sanh tử chỉ là tướng mệt mõi của Bồ đề.

Chỉ cần tu một đề mục vô tự tánh này, người ta có thể đi qua hết tất cả cấp độ trí huệ của Bồ tát.

………………………………….

 3. Thu tỷ nhập.

A Nan, ví như có người bịt gấp hai lỗ mũi, bịt lâu thành ra mỏi mệt, thì ở trong mũi cảm xúc thấy lạnh. Nhân những cảm xúc như vậy mà phân biệt được là thông, là bít, là rỗng, là đặc cho đên các mùi thơm, thối. Cả lỗ mũi và cái mỏi mệt đồng là Bồ đề, do lặng chăm mà phát sanh tướng mỏi mệt. 

Nhân hai thứ vọng trần thông và bít phát ra cái ngửi ở trong, thu nạp các trần tượng mà gọi là cái ngửi. Cái ngửi ấy lìa hai trần thông bít rốt ráo không có tự thể. Thế nên phải biết cái ngửi ấy chẳng phải từ thông, bít mà đến, chẳng phải từ căn mũi mà ra, chẳng từ hư không mà phát sanh. Vì sao thế ? Nếu từ cái thông đến thì khi bít, cái ngửi đã mất rồi, làm sao biết được cái bít ? Nếu nhân cái bít mà có thì khi thông, không còn cái ngửi, làm sao biết được các mùi thơm thối ? Nếu từ lỗ mũi sanh ra hẳn là không có cái thông, cái bít thì cái ngửi như vậy vốn không có tự tánh. Nếu do hư không sanh ra thì cái ngửi ấy phải xoay lại ngửi được lỗ mũi của ông. Hư không tự ngửi được thì có liên quan đến tỷ nhập của ông.
Thế nên phải biết, tỷ nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

………………………………

Cái ngửi và căn mũi không từ đâu sanh, chúng là vô sanh. Vì vô sanh nên dù mỏi mệt hay không mỏi mệt, chúng vẫn là Bồ đề, Như Lai tạng diệu chân như tánh.

………………………………..

4. Thu thiệt nhập.

A Nan, ví như có ngưòi lấy lưỡi liếm môi, liếm mãi sanh ra mỏi mệt. Nếu người ấy đang bệnh thì thấy có vị đắng, còn người không bệnh thì có chút vị ngọt. Do vị ngọt đắng mà hiển hiện căn lưỡi, khi không động thì thường có tính nhạt. Cả cái nếm và cái mỏi mệt đồng là Bồ đề, do kéo dài phát sanh tướng mỏi mệt.
Nhân hai thứ vọng trần ngọt đắng và nhạt phát ra cái nếm ở bên trong, thu nạp các trần tượng ấy mà gọi là sự biết vị. Cái biết vị này ngoài hai vọng trần nhạt và ngọt đắng kia, rốt ráo không có tự thể.

Thật vậy, A Nan, phải biết rằng cái nếm biết vị đắng, nhạt kia chẳng phải từ ngọt đắng mà đến, chẳng phải nhân lạt mà có, lại chẳng phải từ căn lưỡi mà ra, cũng chẳng từ hư không mà sanh. Vì sao thế ? Nếu từ các vị ngọt, đắng mà đến thì khi vị nhạt, cái nếm biết vị đã mất, làm sao biết được vị nhạt ? Nếu từ vị nhạt mà ra, thì khi ngọt, cái nếm biết vị kia đã mất rồi làm sao biết được vị ngọt đắng.
Nếu từ cái lưỡi sanh ra, hẳn không có những vị ngọt, đắng và nhạt, thì cái căn biết mùi vị đó vốn không có tự tánh. Nếu từ hư không mà sanh thì hư không tự nếm biết, chẳng phải lưỡi của ông biết. Hơn nữa, hư không mà tự biết vị thì có liên quan gì đến thiệt nhập của ông ?
Thế nên phải biết, thiệt nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………..

Tìm khắp thế gian sanh tử này cho ra được căn lưỡi và sự biết nếm các vị của nó thì không thể nào có. Cứ tìm bằng Chỉ, Quán, Thiền hết tháng này sang tháng khác, năm này qua năm khác, không ngừng nghỉ thì đến một lúc biết chúng quả thật là vô tự tánh. Đây là lần đầu tiên trực tiếp biết tánh Không. Từ đây mới có gia tài hay kho tàng không gì phá hoại được ở khắp nơi khắp chốn, vì có cái gì không
phải là tánh Không ?

………………………………..

5. Thu thân nhập.

A Nan, ví có người dùng một bàn tay lạnh rờ bàn tay nóng. Nếu bên lạnh nhiều hơn thì bên nóng lạnh theo. Nếu bàn tay nóng nhiều hơn thì bên lạnh thành nóng lên. Như vậy, do cái xúc chạm nhận biết trong lúc hợp lại mà có sự nhận biết trong lúc rời ra. Thể chênh lệch giữa nóng và lạnh này thành là do mỏi mệt mà có ra cảm xúc. Cả thân và cái mỏi mệt đồng là Bồ đề, do chăm chú mà phát sanh tưởng mỏi mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng trần lìa và hợp phát ra cái hay biết ở trong, thu nạp các trần tướng ấy mà gọi là cái biết do xúc chạm. Cái biết ấy lìa khỏi hai trần lìa và hợp, trái và thuận, rốt ráo không có tự thể.
Thật vậy A Nan, phải biết rằng cái biết do xúc chạm ấy chẳng phải từ lìa hợp mà đến, chẳng phải từ trái thuận mà có, chẳng phải từ nơi thân căn mà ra, cũng chẳng phải từ hư không sanh. Vì sao thế ? Nếu từ hợp mà đến thì khi lìa, cái biết đã mất rồi, làm sao biết được cái lìa. Đối với hai tướng trái thuận thì cũng như thế. Nếu từ thân căn mà có ra, hẳn không có các tướng lìa, hợp, trái, thuận, thì cái biết của thân vốn không có tự tánh. Nếu từ hư không sanh thì hư không tự biết, nào có liên quan gì đến thân nhập của ông ?

Thế nên phải biết, thân nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chắng phải tánh tự nhiên.

………………………………….

Cái biết của thân và cái biết thân đều do xúc chạm với vật gì khác gọi là trần mà có. Thiếu một nhân duyên thì thân không thể tự biết nó và biết cái khác. Không có sự xúc chạm thì cũng không có thân.

Quan sát cho kỹ, thấu đáo thì thân căn không có tự thể, vô tự tánh, hư vọng. Với sự quan sát của trí huệ Bát nhã lâu ngày, cái chấp có thân (thân kiến) sụp đổ, và thân giải thoát là thân như hư không,
bao la, vô ngại, vô nhiễm.

Thân là một đề mục, một tài liệu dữ kiện nghiên cứu để tìm ra giải thoát. Cho nên những tài liệu dữ kiện của sanh tử này thật là quý báu, chớ xem thường, chớ bỏ qua, để tìm thấy tánh Không vốn giải
thoát và giác ngộ.

………………………………………

6. Thu ý nhập.

A Nan, ví như có người mỏi mệt thì ngủ, ngủ đủ thì thức dậy, khi xem trần cảnh thì nhớ, hết nhớ thì quên. Các thứ sanh trụ dị diệt điên đảo này hấp thu kết tập ở trong, lần lượt liên tục, gọi là ý căn hiểu biết. Cả ý căn và mỏi mệt đồng là Bồ đề, do chăm chú mà phát sanh tướng mỏi mệt.
Nhân hai thứ vọng trần sanh và diệt kết tập hiểu biết ở trong, thu nhóm thấy nghe thành nội trần chảy ngược vào trong mà không có đáy nền, gọi là cái ý hay biết, Cái ý hay biết này rời lìa hai trần thức và ngủ, rốt ráo không có tự thể.

Thật vậy, A Nan, phải biết căn hay biết ấy chẳng phải từ thức, ngủ mà đến, chẳng phải từ sanh, diệt mà có, chẳng phải từ ý căn mà ra, cũng chẳng phải từ hư không sanh. Vì sao thế ? Nếu từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo sự thức diệt mất, lấy gì để thành sự ngủ ? Nếu khi sanh mới có, thì lúc diệt đã không, lấy cái gì mà biết sự diệt ? Nếu từ diệt mà có thì khi sanh không có cái diệt nữa, lấy cái gì để biết cái sanh.
Nếu từ căn ý mà ra thì hai tướng thức và ngủ theo thân có khi khép khỉ mở, lìa hai tướng ấy thì cái hiểu biết này đồng như hoa đốm giữa hư không, rốt ráo vô tự tánh. Nếu từ hư không sanh ra thì hư không tự biết, liên quan gì đến ý nhập của ông ?
Thế nên phải biết, ý nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………..

Ý nhập là những thứ thấy nghe hay biết đi ngược vào trong kết tập thành bóng dáng nội trần nhưng không có đáy nền để an trụ. Không có đáy nền nên đi ngược vào trong kết tập bao nhiêu cũng không đầy.

Ý không có nền tảng để an trụ, vẫn vơ như bụi trong khoảng không, như mây giữa bầu trời. Trong sanh nó không có tự tánh, trong trụ nó không có tự tánh, trong dị nó không có tự tánh, trong diệt nó
không có tự tánh. Nó là tánh Không, vô sở hữu, bất khả đắc.

Nghiên cứu ý để đi vào tánh Không, chủ yếu nhờ Chi và Quán. Nhưng tánh Không cũng là tánh Như, nhờ Thiền mà chúng ta đi vào tánh Như của ý. Khi tương ưng được tánh Như, thì mọi tướng cũng đều là tánh Như, kể cả tướng ý. Bởi thế, trong thật tướng, ý nhập là Như Lai tạng diệu chân như tánh. Như thế giới này làm bằng tánh vàng thì tất cả mọi thứ được làm ra hay đã mất đi đều là vàng.

Thực hành là đưa năm ấm, sáu nhập hay sáu căn về bản tánh của chúng là tánh Không, tánh Như.

ở đây nói sáu căn vốn đồng là Bồ đề, chỉ vì mệt mỏi mà phát sanh các vọng trần, nhưng các căn, sự mỏi mệt làm phát sanh các vọng trần đồng là Bồ đề. Tịch tĩnh là Bồ đề, mà vọng động cũng là Bồ đề. Như các sóng vốn là nước của đại dương, sóng không có tự tánh, và như thế sóng đồng là đại dương. Không có cái gì ngoài Bồ đề, đây là sự gồm thu rốt ráo về Như Lai tạng.

Tùy theo mức độ chứng ngộ tánh Không tánh Như đến đâu mà hành giả thâm nhập đại bi đến đó. Bởi vì khi nhìn thấy chúng sanh khổ đau vì lầm lạc, vọng tưởng điên đảo, khổ đau vì những thứ không thật, vô tự tánh mà không biết Như Lai tạng diệu chân như tánh của mình, thì tự nhiên lòng bi tuôn vọt ra, như trong những đoạn kinh trên, Đức Phật thường nói, “ thật đáng thương xót” .

Đại Trí luôn luôn đi với Đại Bi là như vậy.

……………………………………

III. THU MƯỜI HAI XỨ VỀ NHƯ LAI TẠNG.

Lại nữa, A Nan, thế nào là mười hai xứ vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh ?

1. Thu hai xứ căn mắt và sắc trần.

A Nan, ông hãy xem rừng Kỳ Đà và các suối ao này. Ý ông thế nào ? Thấy được như thế là sắc trần sanh ra mắt thấy, hay con mắt sanh ra sắc tướng ?
A Nan, nếu căn mắt sanh ra sắc tướng thì khi thấy hư không không có sắc lẽ ra tánh sắc phải tiêu mất, đã tiêu mất thì rõ ràng tất cả đều không. Sắc tướng đã không thì làm sao còn rõ được hư không ? Đối với hư không cũng lại như vậy.

Lại nữa nếu sắc trần sanh ra mắt thấy, thì khi thấy hư không không có sắc, cái thấy phải tiêu mất. Tiêu mất thì tất cả đều không, lấy gì rõ được sắc tướng và hư không ?
Thế nên phải biết, cái thấy cùng với sắc tướng và hư không đều không có xứ sở, tức là sắc trần và cái thấy hai xứ đó là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

………………………………………

Phá năm ấm thì nhấn mạnh đến vọng thấy, vọng hiểu, nghĩa là y cứ vào Thức. Phá sáu nhập thì nhấn mạnh vào sự “ rốt ráo không có tự thể, vô tự tánh” của các Căn. Ở đây phá mười hai xứ thì nói “ đều
không có xứ sở” , nhưng lấy ngay các Trần trước mặt mà nói.

Căn mắt không sanh ra sắc trần, sắc trần cũng không sanh ra căn mắt, ngay đó cảnh trước mắt là vô sanh, không có xứ sở.

…………………………………………

2. Thu hai xứ căn tai và thanh trần.

A Nan, ông lại nghe trong vườn Kỳ Đà này, khi dùng cơm thì đánh trống, lúc họp chúng thì đánh chuông. Tiếng chuông, tiếng trống trước sau tiếp nối. Ý ông thế nào ? Như vậy là cái tiếng đến bên lỗ tai hay lỗ tai đến chỗ cái tiếng ?
A Nan, nếu cái tiếng này đến bên lỗ tai, như khi ta khất thực trong thành Thất La Phiệt, thì ở rừng Kỳ Đà không có ta nữa. Cái tiếng ấy nếu đã đến lỗ tai của ông, A Nan, thì lẽ ra ông Mục Kiền Liên, ông Ca Diếp chẳng cùng nghe được. Huống gì trong này có một ngàn hai trăm năm mươỉ vị sa môn, một khi nghe tiếng chuông thì cùng đến ở chỗ ăn.

Lại nếu lỗ tai ông đến bên cái tiếng, như ta đã về rừng Kỳ Đà rồi, thì trong thành Thất La Phiệt không có ta nữa. Vậy khi ông nghe tiếng trống, lỗ tai của ông đã đến nơi tiếng trống, thì khi tiếng chuông đồng thời phát ra, đáng lẽ ông không thể cùng nghe, huống nữa, ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, bò, dê và nhiều tiếng khác. Còn nếu chúng không đi đến với nhau thì lại không nghe gì cả.
Thế nên phải biết, cái nghe và cái tiếng đều không có xứ sở, tức là cái nghe và thanh trần, hai xứ ấy là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

……………………………………….

Sắc tướng và con mắt chẳng đến nhau, cái tiếng và lỗ tai chẳng đến nhau…. Đây là điều Kinh Đại Bát Nhã gọi là tánh lìa (ly), một nghĩa của tánh Không :

_ “ Bạch Thế Tôn, các pháp, tánh các pháp lìa chăng ?

_ Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề ! Các pháp, tánh các pháp là lìa”
{Phẩm Đạo Thọ).

Âm thanh và lỗ tai không đến nhau, vì tánh của âm thanh và lỗ tai là lìa. Quán sát tánh lìa này nơi các pháp, các pháp chẳng dính dáng gì nhau, cho đến khi trực tiếp thấy tánh Không, tức là các pháp “ đều không có xứ sở” . Bấy giờ dù có mở mắt mà nhìn thì các pháp đều là tánh lìa, tức là thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe.

………………………………..

3. Thu hai xứ căn mũi và hương trần.

A Nan, ông hãy ngửi mùi hương Chiên đàn trong lò này. Hương ấy nếu đốt đến một lư lớn thì cả thành Thất La Phiệt, trong bốn mươi dặm đều đồng thời ngửi được mùi thơm. Ý ông thế nào ? Hương ấy sanh ra từ cây Chiên đàn, sanh nơi mũi ông, hay sanh từ hư không ?
A Nan, nếu mùi hương này sanh từ lỗ mũi ông, đã nói từ lỗ mũi sanh, thì phải từ lỗ mũi mà ra, nhưng lỗ mũi không phải chiên đàn, làm sao trong lỗ mũi lại có được mùi hương chiên đàn ? Lại đã nói ông ngửi mùi thơm, thì mùi thơm phải vào trong lỗ mũi ; còn nói rằng trong lỗ mũi phát ra mùi thơm là không đúng nghĩa.

Nếu từ hư không sanh, thì hư không thường hằng, mùi thơm lẽ ra cũng thường có, sao phải đốt cây chiên đàn khô trong lò mới có mùi thơm ? Nếu mùi thơm sanh ra từ cây chiên đàn thì chất thơm ấy nhân đốt mà thành khói, nếu ngửi mùi được là nhờ khói, tại sao khói ấy xông lên khoảng không thấy chưa bao xa mà trong vòng bốn mươi dặm đều đã ngửi thấy ?
Thế nên phải biết, hương trần, lỗ mũi và sự ngửi, đều không có xứ sở, tức là cái ngửi và hương trần hai xứ đó là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

……………………………………….

Sự ngửi được hương trần nhân nhiều thứ hợp lại mà thành : lỗ mũi, cây chiên đàn khô, sự đốt cháy, khói, khoảng không, độ xa bốn mươi dặm…. thiếu một nhân duyên thì chẳng ngửi được mùi hương
nào cả. Do nhiều nguyên nhân duyên hợp lại mà tạm thời có nên vô tự tánh, là hư vọng, không thật có xứ sở nào.

Khi quán sát vi tế mọi hiện tượng của các giác quan là không có xứ sở, người ta thấy ra cái không có xứ sở đích thực trùm khắp và thường hằng. Đó là Như Lai tạng diệu chân như tánh.

……………………………………..

4. Thu căn lưỡi và vị trần.

A Nan, ông thường hai thời trong chúng ôm bình bát đi khất thực, khi ấy hoặc gặp được tô lạc, đề hồ, gọi là vị quý. Ý ông thế nào? Vị ấy sanh ra từ hư không, do từ cái lưỡỉ hay từ đồ ăn?
A Nan, nếu vị ấy sanh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi, lúc ấy cái lưỡi đã thành vị tô lạc rồi, nếu gặp đường phèn, lẽ ra vị không thay đổi. Nếu không thay đổi thì không gọi là biết vị. Còn nếu có thay đổi thì cái lưỡi không có nhiều thể, làm sao một lưỡi biết được nhiều vị?
Nếu vị ấy sanh ra từ thức ăn thì thức ăn không có sự biết, làm sao nó tự biết vị? Lại nếu thức ăn tự biết, tức đồng với người khác ăn, thì có liên hệ gì đến ông mà nói ông biết vị?

Nếu vị ấy sanh ra từ hư không thì ông hãy nếm hư không xem là vị gì. Nếu hư không đó mà có vị mặn, đã làm mặn lưỡi ông thì cũng làm mặn mặt ông. Vậy thì người trong thế giới này cũng giống như cá trong biển, đã thường hưởng vị mặn thì rốt không biết được vị nhạt. Nếu không biết vị nhạt thì cũng không biết vị mặn, đã không có chỗ biết thì làm sao gọi là biết vị?

Thế nên phải biết vị trần và căn lưỡi và sự nếm vị đều không có xứ sở. Tức là sự nếm vị và vị trần hai xứ đó đều hư- vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên chẳng phải tánh tự nhiên.

………………………………….

Ở bất cứ đâu trên thế giới này hội họp đủ điều kiện, cái lưỡi của người, thức ăn nào đó, hoàn cảnh khi ăn (vì lo nghĩ quá thì có khi ăn mà chẳng biết vị gì), ý thức…thì vị nào đó liền xuất hiện. Lưỡi và vị chẳng ở đâu cả vì thiếu một điều kiện thì không thể xuất hiện, nhưng lại ở khắp cả thế giới, nơi đâu có đủ điều kiện thì xuất hiện. Lưỡi và vị ở khắp tất cả mà cũng chẳng ở nơi đâu cả, không có xứ sở nhất định.

Nhưng chúng không phải nhân duyên vì có đủ nhân duyên vật chất mà không có tánh giác thì cũng chẳng có sự biết vị. Chúng cũng chẳng phải tự nhiên, vì không có nhân duyên điều kiện thì chúng
không xuất hiện.

Quán sát rốt ráo sẽ đi đến nền tảng của cái lưỡi và sự nếm vị, đó là Như Lai tạng diệu chân như tánh. Tánh này chẳng phải nhân duyên, nghĩa là vốn giải thoát, không nhờ vào sự xuất hiện mới có. Nhưng
cũng chẳng phải tự nhiên vì không có nhân duyên thì không xuất hiện.

………………………………

5. Thu căn thân và xúc trần.

A Nan, buổi sáng sớm ông thường lấy tay xoa đầu. Ý ông thế nào? Cái biết do xoa này, ai là người biết sự xúc chạm? Cái năng biết ấy ở nơi tay hay ở nơi đầu?
Nếu có ở nơi tay mà cái đầu không biết thì làm sao thành cái biết do xúc chạm? Nếu có ở nơi đầu, mà cái tay lại vô dụng thì làm sao gọi là cái biết xúc chạm? Nếu đầu và tay đều có cái biết, thì ông A Nan lại có hai thân.

Nếu đầu và tay đều do một sự xúc chạm sanh ra thì tay và đầu phải cùng một thể. Nếu là một thể thì sự biết do xúc chạm không thành. Còn nếu là hai thể thì sự biết do xúc chạm ở bên nào? Ở bên năng thì không có ở bên sở; ở bên sở thì không có ở bên năng. Chẳng lẽ hư không tạo thành sự biết do xúc chạm của ông?
Thế nên phải biết, cái biết do xúc chạm và thân thể đều không có xứ sở. Tức là cái thân thể và xúc chạm cả hai đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………….

Thân thể có xúc chạm mới biết có thân, có vật. Thân thể, vật được xúc chạm và cái biết do sự xúc chạm này đều do vô số nhân duyên sanh, nên vô tự tánh, không có xứ sở nhất định, như huyễn. Do
vô số nhân duyên nên không thành một cái gì thật có.

Bất cứ nơi đâu hội đủ nhân duyên cho sự xúc chạm lúc ấy mới biết có thân, mới có thân. Vậy thì thân có thể có ở bất cứ nơi đâu, đồng thời không có xứ sở, không thật ở nơi đâu cả.

Bất cứ không gian nào, thời gian nào có đủ nhân duyên, nơi ấy lúc ấy có thân, ngoài ra không có thân ở đâu cả. Cái thân không có ở đâu cả này, là Vô Biên Thân (Bồ tát Vô Biên Thân trong Kinh Đại Bát Niết Bàn). Đây là thân giải thoát mà sanh tử do nhân duyên sanh không thể giam nhốt được. Đây là thân chung vốn giải thoát của tất cả chúng sanh và các Bồ tát.

Nhưng cũng nhờ cái thân do nhân duyên sanh này mà học được bài học thế gian. Chẳng hạn nhờ thân này biết đau mới biết thân người khác cũng biết đau, từ đó mà có lòng từ bi. Nhờ cái thân như huyễn trong như huyễn tam muội này, mà có thể làm bốn nhiếp pháp bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự với tất cả chúng sanh, và làm tất cả các ba la mật.

vấn đề là thật biết bản tánh của thân và rồi sử dụng thân nhân duyên sanh như huyễn này như một Hóa-thân để làm việc cho đời.

………………………………….

6. Thu ý căn và pháp trần.

A Nan, trong ý ông thường duyên vói ba tánh thiện, ác, vô ký mà sanh thành các pháp. Các pháp trần ấy là do tâm sanh hay lìa ngoài tâm mà có riêng nơi chốn? A Nan, nếu tức là tâm thì các pháp chẳng phải trần cảnh, như- thế chẳng phải là sở duyên của tâm, làm sao thành xứ được?
Nếu lìa ngoài tâm có riêng nơi chốn thì tự tánh của pháp trần là biết hay chẳng biết? Nếu có biết thì gọi là tâm. Nhưng nếu pháp trần khác với ông và chẳng phải trần cảnh thì đồng tâm lượng của người khác. Còn nếu pháp trần tức là ông và cũng tức là tâm thì làm sao tâm lại thành hai ở nơi ông được?

Nếu không có cái biết thì pháp trần ấy đã chẳng phải sắc, thanh, hương, vị, lìa, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không, vậy nó hiện ở chỗ nào? Hiện nay ở nơi sắc tướng và hư không, đều không thể chỉ ra nó được, chẳng lẽ trong nhân gian lại có cái ra ngoài hư không? Tâm ý mà không có sở duyên thì xứ do đâu mà thành lập?
Thế nên phải biết, pháp trần và tâm ý đều không có xứ sở. Tức là ý căn và pháp trần cả hai xứ đều hư vọng, chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

………………………………………

Pháp trần là chỗ sở duyên của ý. Nó chẳng thể tức là tâm mà cũng chẳng thể lìa ngoài tâm. Pháp trần đã không ở đâu cả thì ý cũng không có xứ sở. Sự hòa hợp của hai cái không ở đâu cả, không có xứ sở chỉ có thể gọi là như mộng, .như huyễn. Cả hai xứ ý căn và pháp trần đều không có xứ sở, đều hư vọng, như lông rùa sừng thỏ, chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………………..

IV. THU MƯỜI TÁM GIỚI VỀ NHƯ LAI TẠNG.

Lại nữa, A Nan! Thế nào là mười tám giới vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh?

……………………………………………

Căn là giác quan, đối tượng của giác quan là Trần, Thức ở giữa sống bằng sự phân biệt. Cả ba nương tựa nhau mà có, thiếu một cái thì thế giới trước mắt không thành. Căn, trần, thức mỗi cái đều phụ
thuộc vào nhiều nhân duyên nữa.

Căn, trần, thức do vô số nhân duyên mà sanh, “ngay chỗ sanh ra, ngay đó diệt tận, hư huyễn vì mê vọng nên nói là tướng, chứ thật tánh của chúng là diệu giác minh thể”.

Gom tất cả các tướng về tánh Không, mà tánh Không cũng là tánh Như, nên khi mọi sự đã trở về tánh Không thì Chân Như hiện bày. Như khi thấy mọi bóng trong gương đều vô tự tánh, như huyễn
thì tấm gương hiện bày.

Thực hành là chuyển mọi sự về tánh Không, tùy theo chuyển được đến đâu thì Chân Như hiện bày đến đó. Đây là chỗ gọi là “chuyển vật tức đồng Như Lai”.

…………………………………..

1. Thu nhãn thức giới.

A Nan, như chỗ ông bày tỏ, nhãn căn và sắc trần làm duyên, sanh ra nhãn thức. Thức này là nhân nhãn căn sanh, lấy nhãn căn làm giới, hay nhãn sắc trần sanh, lấy sắc trần làm giới?

A Nan, nếu nhân nhãn căn sanh ra mà không có sắc trần và hư không thì không thể có sự phân biệt được, dầu có cái thức của ông cũng chẳng làm gì. Cái thấy của ông ngoài những sắc xanh, vàng, trắng, đỏ…thì không thể biểu hiện, vậy do đâu mà lập giới?
Nếu nhân sắc trần sanh ra, thì khi ở hư không, không có sắc, lẽ ra cải thức của ông phải diệt, làm sao mà biết đó là hư không? Nếu khi sắc trần biến đổi, ông cũng biết sắc tướng biến đổi, nhưng cái thức của ông chẳng biến đổỉ, thế thì do đâu lập sắc trần làm giới? Nếu theo sắc biến đối thì tướng của giới là không có. Nếu không biến đổi là thường hằng, cái thức đã từ sắc trần sanh ra, lẽ ra không biết hư không ở đâu.

Nếu do cả hai thứ nhãn căn và sắc trần chung nhau sanh ra, hợp lại thì ở giữa ắt có chỗ lìa, còn như lìa thì phải hợp hai bên. Như thế thể tánh lộn lạo, làm sao thành được giói?
Thế nên phải biết, nhãn căn và sắc trần làm duyên sanh ra nhãn thức giới, ba xứ đều không có. Tửc là nhãn căn, sắc trần và nhãn thức giới, cả ba vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………….

“Nhãn căn và sắc trần làm duyên, sanh, ra nhãn thức”, nhưng ở trước trong phần Thu mười hai xứ, hai xứ ấy đã hư vọng, đều không có xứ sở, thì làm sao làm duyên sanh ra nhãn thức được. Thế nên
nhãn thức thật không được sanh ra.

Nhãn thức chằng phải sanh ra từ sắc trần, chẳng phải sanh ra từ nhãn căn, cũng chẳng phải sanh ra từ cả hai chung nhau. Quán sát nhiều lần và kỹ lưỡng như vậy sẽ thấy ngay nhãn thức là vô sanh. Nhãn thức là vô sanh, ngay đó bèn giải thoát.

…………………………………….

2. Thu nhĩ thức giới.

A Nan, như chỗ ông bày tỏ, nhĩ căn và thanh trần làm duyên sanh ra nhĩ thức. Thức ấy nhân nhĩ căn mà sanh, lấy nhĩ căn làm giới, hay nhân thanh trần mà sanh, lấy thanh trần làm giới?
A Nan, nếu nhân nơi nhĩ căn sanh mà không có mặt hai tướng động tĩnh thì cái biết của nhĩ căn chằng thành. Đã không biết gì thì cái biết còn không thành, huống nữa cái thức phân biệt đâu có hình trạng gì?
Nếu cho rằng lỗ tai nghe, khi không có hai tướng động tịnh cái nghe đã không thành, thì làm sao lấy hình tướng lỗ tai tiếp xúc trộn lẫn sắc trần mà được gọi là nhĩ thức giới. Cái nhĩ thức giới ấy do đâu mà thành lập?

Nếu nhân nơi thanh trần mà sanh thì nhĩ thức nhân thanh trần mà có, ắt chẳng liên quan gì đến cái nghe, mà đã không nghe thì cũng không biết các tướng thanh trần ở đâu. Nếu nhĩ thức do thanh trần sanh ra, dầu cho rằng thanh trần nhân cái nghe mà có tướng, thì cái nghe lẽ ra phải nghe được nhĩ thức. Nếu không nghe được nhĩ thức thì thanh trần chẳng phải là giới của nhĩ thức. Còn nếu nghe được thì nhĩ thức cũng đồng với thanh trần, và nhĩ thức đã bị nghe, thì cái gì biết nghe nhĩ thức đó. Còn nếu không có cái gì biết thì rốt cuộc giống như cỏ cây.
Chẳng lẽ thanh trần và cái nghe trộn lẫn thành ra cái giới ở giữa. Giới không có ở giữa thì các tướng nội căn và ngoại trần do đãu mà thành?

Thế nên phải biết, nhĩ căn, thanh trần làm duyên sanh ra nhĩ thức giới, cả ba xứ ấy đều không có. Tức là ba thứ nhĩ căn, thanh trần và nhĩ thức giới cả ba vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chắng phải tánh tự nhiên.

……………………………………..

Cái thức lỗ tai chẳng do âm thanh sanh ra, chẳng do lỗ tai sanh ra, và âm thanh chẳng do lỗ tai sanh ra, chẳng do thức lỗ tai sanh ra … Lỗ tai, âm thanh và thức, cả ba đều không có vì chẳng do đâu sanh ra chẳng do hợp lại nhiều yếu tố sanh ra. Như hoa đốm giữa hư không như lông rùa sừng thỏ.

Các tướng đều không có thì đó là toàn tánh Chân Như, như khi không còn cho bóng là thật thì tất cả toàn là gương. Kinh Viên Giác nói, “những cái huyễn đã diệt thì cái chẳng phải huyễn hiện ra”. Thế
gian sanh tử huyễn hóa càng biến mất bao nhiêu thì Niết bàn chân như càng hiện ra bấy nhiêu, mới biết rằng xưa nay chỉ có một mặt trăng thật, chưa từng có mặt trăng thứ hai.

……………………………………

3. Thu tỷ thức giới.

A Nan, lại như chỗ ông bày tỏ, tỷ căn và hương trần làm duyên, sanh ra tỷ thức. Thức ấy nhân tỷ căn sanh ra, lấy tỷ căn làm giới hay nhân hương trần sanh ra, lấy hương trần làm giới?
A Nan, nếu nhân tỷ căn sanh ra, thì trong tâm ông, lấy cái gì làm tỷ căn? Lấy cái hình tướng mũi thịt như hai móng tay, hay lấy sự ngửi biết lay động làm tỷ căn?
Nếu lấy hình tướng mũi thịt, chất thịt là thân căn và cái biết của thân là xúc chạm. Đã gọi là thân căn thì không phải căn mũi, gọi là xúc chạm thì đó là xúc trần. Vậy không có gì để gọi là tỷ căn, làm sao mà lập thành giới?

Nếu lấy cái mũi ngửi biết làm tỷ căn thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái biết. Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất thịt là xúc trần chứ không phải là tỷ căn. Nếu lấy hư không làm cái biết thì hư không ắt tự biết, xác thịt của ông lẽ ra chẳng biết Như thế lẽ ra hư không phải là ông. Thân ông mà chẳng biết thì hiện giờ A Nan chẳng có ở đâu nữa.

Nếu lẩy hương trần làm cái biết thì cái biết ẩy thuộc hương trần, thì liên quan gì đến ông? Nếu mùi thơm mùi thối sanh nơi căn mũi của ông thì hai mùi thơm, thối kia không sanh do cây chiên đàn và cây y lan. Hai vật ấy chẳng đến thì ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay thối? Thối thì chẳng phải thơm, thơm thì không phải thối. Nếu cả hai mùi thơm thổi đều có thể ngửi thì một người như ông phải có hai lỗ mũi, như thế đứng trước ta hỏi đạo lại có hai A Nan, vậy đâu là thể của ông? Nếu tỷ căn là một thì thơm thối không hai, thối đã là thơm, thơm lại thành thối, không có hai tánh thì do đâu mà thành giới?

Nếu nhân hương trần mà sanh, tỷ thức nhân hương trần mà có, cũng như nhân con mắt mà có thấy thì cái thấy ấy không thể thấy con mắt, Tỷ thức nhân hương trần mà có thì lẽ ra không biết được hương trần. Nếu biết được hương trần thì chẳng phải do hương trần sanh ra, còn nếu không biết được hương trần thì chẳng phải là tỷ thức. Hương trần mà chẳng do biết mà có thì giới của hương không thành. Tỷ thức nếu không biết hương trần thì cái giới của nó không phải nhân hương trần mà lập. Đã không có cái thức ở khoảng giữa thì nội căn, ngoại trần cũng không thành, các thứ ngửi biết kia rốt ráo là hư vọng.

Thế nên phải biết, tỷ căn và hương trần làm duyên sanh ra tỷ thức giới, ba xứ đều không có. Tức ba thứ tỷ giới, hương giới và tỷ thức giới vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………….

Căn trần thức nương nhau mà có, mỗi cái không thể tự đứng riêng được, về mặt căn, nó không thể có ở đâu cả, không do cái gì sanh ra cả, nó vô tự tánh, hư vọng, như huyễn. Trần không thể có nếu không có căn, căn như huyễn thì trần cũng như huyễn. Căn, trần đã như huyễn thì cái ở giữa là tỷ thức nương vào hai căn trần dầu khó thấy hơn lại càng như huyễn.

Cả ba không có xứ sở, không đứng một mình, không hòa hợp nhau, không xen lộn nhau cho nên rốt ráo là không thành, hư vọng, như huyễn.

Từ ba thứ này, suy ra tất cả thế gian đều không chỗ có, hư vọng, như huyễn. Làm sao có thể nắm bắt, tạo tác, lo sợ hay hy vọng với cái không có?

……………………………………..

4. Thu thiệt thức giới.

Lại như chỗ ông bày tỏ, thiệt căn và vị trần làm duyên sanh ra thiệt thức. Thức ấy nhân thiệt căn sanh ra, lấy thiệt căn làm giới, hay nhân vị trần sanh ra, lấy vị trần làm giới?
A Nan, nếu nhân thiệt căn sanh ra, thì trong thế gian mía ngọt, mơ chua, hoàng liên đắng, muối mặn, gừng, quế…đều không có vị. Ông tự nếm cái lưỡi là ngọt hay đắng? Nếu cái lưỡi là đắng thì lấy cái gì để nếm cái lưỡi? Lưỡi chẳng thể tự nếm, thì lấy gì mà có hay biết? Nếu lưỡi không có đắng, vị trần chẳng tự sanh, làm sao thành lập giới?

Nếu nhân vị trần sanh, thì thiệt thức tự là vị rồi, đồng như thiệt căn, lẽ ra không thể tự nếm, làm sao biết là vị hay chẳng phải vị? Lại tất cả các vị chẳng phải do một vật sanh ra, các vị đã do nhiều vật sanh ra, mà thiệt thức nếu do vị trần sanh, cũng phải có nhiều tự thể. Nếu thiệt thức là một thể và thể đó do vị sanh ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay, các tướng khác nhau này phải chỉ là một vị, không thể phân biệt. Không có phân biệt thì không có ý thức, làm sao còn gọi là thiệt thức giới? Chẳng lẽ hư không sanh ra cái thức phân biệt của ông?

Thế thì cái thức ở giữa do thiệt căn và vị trần hòa hợp mà sanh, vốn không có tự tánh, làm sao giới có sanh?
Vậy nên phải biết, thiệt căn vị trần làm duyên sanh ra thiệt thức, cả ba xứ đều không có. Tức là thiệt giới, vị giới và thiệt thức giới cả ba vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

………………………………….

Thiệt thức chẳng phải từ thiệt căn, vị trần, hư không hoặc cả ba chung nhau sanh. Chẳng phải một, chẳng phải nhiều, chẳng phải từ cái một sanh, chẳng phải từ cái nhiều sanh. Không từ đâu sanh ra nghĩa là vô sanh. Vô sanh tức là vốn giải thoát, vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh.

Chỉ cần quán thấy một căn và những công dụng của nó là vô sanh, thì tất cả sanh tử đều vô sanh.

…………………………………

5. Thu thân thức giới.

A Nan: Lại như cho ông bày tỏ, thân căn và xúc trần làm duyên sanh ra thân thức. Thức này là nhân thân căn sanh, lấy thân làm giới, hay nhân xúc trần sanh, lấy xúc trần làm giới?
A Nan, nếu nhân thân căn sanh mà không có hai duyên xúc giác hợp và lìa, thì thân làm sao biết gì. Nếu nhân xúc trần sanh mà không có thân căn của ông, thì có ai không có thân căn mà biết sự lìa hợp?
A Nan, vật không biết sự xúc chạm, thân căn mới biết sự xúc chạm. Tức nơi xúc chạm mà biết có thân căn; tức nơi thân căn biết có xúc chạm. Tức xúc chạm thì không phải thân căn, tức thân căn không phải xúc giác. Cả hai tướng thân căn và xúc trần nguyên không có xứ sở.

Nếu xúc trần hợp với thân căn tức là tự thể của thân căn, lìa thân căn thì như tướng hư không. Nội căn ngoại trần đã không thành, cái thức ở giữa làm sao mà lập ? Giữa đã không lập được, trong ngoài đều là tánh Không, thì cái thân thức sanh ra của ông do đâu mà lập thành giới ?
Thế nên phải biết, thân căn và xúc trần làm duyên sanh ra thân thức, cả ba xứ đều không có. Tức là cả ba thứ thân giới, xúc giới và thân thức giới vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………..

Trong là thân căn, ngoài là xúc trần đều là vô tự tánh, không thể lập thành cái gì. Thế thì thân thức ở giữa dựa vào hai bên càng vô tự tánh, càng không thể thành lập. Vì không thể thành lập nên không thể có. Trong, ngoài, giữa đều là tánh Không.

Khi cả ba đều vô tự tánh thì cái có thật tánh chỉ một vị là Như Lai tạng diệu chân như tánh hiển lộ trọn vẹn.

……………………………………….

6. Thu ý thức giới.

A Nan, lại như chỗ ông bày tỏ, ý căn và pháp trần làm duyên sanh ra ý thức. Thức này nhân ý căn sanh, lấy ý căn làm giới, hay nhân pháp trần sanh, lấy pháp trần làm giới?
A Nan, nếu nhân ý căn sanh thì trong ý ông ắt có chỗ suy nghĩ mới phát minh được cái ý của ông, như nếu không có các pháp trần ở trước thì ý không thể sanh. Lìa các duyên trần, ý căn không có hình tượng, thì thức tâm không có công dụng gì.
Lại cái thức tâm của ông, cùng các suy nghĩ tính toán và tánh
phân biệt là đồng nhau hay khác nhau? Nếu đồng vói ý căn tức đã là ý căn, làm sao lại do ý căn sanh ra? Nên khác với ý căn tức là chẳng đồng, thì lẽ ra không biết phân biệt; nếu không biết phân biệt thì sao lại do ý căn sanh ra? Còn nếu có phân biệt thì làm sao nhận biết ý căn được? Khi hai tánh đồng và khác không thành, giới nhân đâu mà lập?

Nếu ý thức nhân pháp trần sanh thì các pháp trong thế gian không ngoài năm trần. Ông hãy xem các pháp sắc, thanh, hương, vị và xúc đều có tướng trạng phân minh đối với năm căn nhưng chẳng phải chỗ thu nhiếp của ý căn. Nếu ý thức quyết định là nương nơi pháp trần mà sanh, thì ông nay hãy xem xét kỹ mỗi pháp có tướng trạng gì. Nếu lìa khỏi sắc không, động tĩnh, thông bít, lìa hợp, sanh diệt, vượt ngoài các tướng này thì rốt ráo không chỗ đắc. Sanh thì các pháp sắc không…đều sanh ra, diệt thì cái pháp sắc không…đều diệt. Chỗ nhân đã không thì cái thức do chúng sanh ra đâu có hình tướng gì ? Tướng trạng không thể có, giới do đâu mà sanh ?

Thế nên phải biết, ý căn, pháp trần làm duyên sanh ra ý thức, ba xứ đều không có. Tức là ba thứ ý giới, pháp giới và ý thức giới vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.

…………………………………..

Ý thức là các hoạt động như suy nghĩ, phân biệt, tưởng tượng.. .tất cả đều dựa trên các pháp trần. Cho đến các pháp trần vi tế, trừu tượng, như sắc không, động tĩnh, thông bít, lìa hợp, sanh diệt…nếu không có chúng thì không có suy nghĩ của ý thức. Nhưng các pháp trần vi tế, trừu tượng này đều vô tự tánh. Chẳng hạn hư không mà không có sắc thì lấy gì để phân biệt được hư không, diệt mà không có sanh thì lấy gì để phân biệt được diệt. Chúng dựa vào nhau mà có nên đều vô tự tánh. Chỗ nhân, chỗ nương vào đã không thì cái ý thức làm sao có được thật tướng gì.

Quán sát kỹ thì thấy ý thức như mây nổi, như tia chớp, chợt sanh chợt diệt; như giấc mộng không từ đâu không đến đâu; như cầu vồng không thể nắm bắt. Cả ba ý căn, pháp trần và ý thức đều không thật có. Chẳng phải nhân duyên, như lông rùa sừng thỏ thì nhân duyên gì. Chẳng phải tự nhiên vì hư vọng sanh ra.

Khi thấy được mười tám giới là không có, chẳng phải nhân duyên chẳng phải tự nhiên, thì cái muôn đời thật có là Như Lai tạng diệu chân như tánh sừng sửng trước mắt. Tu hành là đưa mười tám giới về
tánh Không để Chân Như hiện bày.

Phần đưa ấm, nhập, xứ, giới, về Như Lai tạng nhấn mạnh đến tánh Không, cho nên đều kết luận rằng “ vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chắng phải tánh tự nhiên” . Đến phần Bảy đại tâm thức hành giả đã tinh tường hơn nên chỉ thẳng rốt ráo “ tánh sắc là Chân Không, tánh Không là chân sắc” .

Sự tu hành đưa ấm, nhập, xứ, giới về Như Lai tạng sẽ được minh giải rõ ràng trong sự tu chứng viên thông của 25 vị thánh được nói ở phần sau.

…………………………………..

2.THU BẢY ĐẠI VỀ NHƯ LAI TẠNG.

A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói về nhân duyên hòa hợp rằng, tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều nhân bốn đại hòa hợp mà phát hiện ra. Thế sao Như Lai đều bài bác cả hai nghĩa nhân duyên và tự nhiên? Nay con không biết nghĩa ấy như thế nào, cúi mong Phật thương xót khai thị cho chúng sanh nghĩa trung đạo rốt ráo, không còn các điều hý luận.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo ông A Nan: Trước kia ông đã chán lìa các pháp Tiểu thừa Thanh Văn, Duyên Giác mà phát tâm cần cầu Giác ngộ vô thượng, nên nay ta vì ông chỉ bày đệ nhất nghĩa đế. Sao ông lại còn đem những vọng tưởng nhân duyên hý luận thế gian mà tự ràng buộc?

Ông tuy nghe nhiều mà như người nói tên thuốc, đến khi thuốc thật đang ở trước mắt lại chẳng phân biệt được. Như Lai bảo thế thật là đáng thương xót! Nay ông hãy nghe kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt khai thị và cũng khiến cho những người tu Đại thừa mai sau thông đạt thật tướng.
A Nan im lặng, chờ nghe lời Phật chỉ dạy.

……………………………………….

Ngài A Nan còn thắc mắc rằng Đức Phật thường nói về nhân duyên từ đầu, lần thuyết pháp thứ nhất cho đến lần thứ hai, thứ ba, mà nay Phật lại bác bỏ nhân duyên.

Thật ra Đức Phật không bác bỏ nhân duyên, mà đưa nhân duyên vào thật nghĩa, vào Đệ nhất nghĩa đế, cũng tức là thật tướng của tất cả các pháp.

Cái thấy hay quan kiến của Tiểu thừa là nhân duyên thì sanh diệt.

Đó là điều mà người nào cũng đều công nhận, vì có cái nhân duyên nào tránh khỏi vô thường. Với cái thấy nhân duyên sanh diệt, thực tại bèn chia thành hai thế giới. Một thế giới do nhân duyên sanh diệt tạo thành, đó là thế giới sanh tử; và một thế giới không do nhân duyên sanh diệt, đó là thế giới Niết bàn. Sanh tử là do nhân duyên, do đó là sanh diệt. Niết bàn không do nhân duyên, do đó là không sanh diệt.

Cái thấy hay quan kiến Đại thừa cao hơn, rốt ráo hơn nên gọi là đệ nhất nghĩa đế hay thật tướng của tất cả các pháp. Cái thấy này thấy nhân duyên hay tất cả các pháp thì không sanh không diệt, xưa chưa từng sanh nay không từng diệt. Đây là cái thấy bất nhị, không hai, giữa sanh diệt và không sanh diệt.

Nhân duyên không sanh không diệt, hay nói theo Kinh Lăng Nghiêm là “chẳng phải nhân duyên”, nên không có sanh tử có sanh diệt và Niết bàn không sanh diệt. Nói cách khác, sanh tử tức Niết bàn,
đều không sanh không diệt.

Nói theo Kinh Bát Nhã, chẳng phải rằng sanh tử là sắc, một bên, và Niết bàn là Không, một bên. Mà sanh tử sắc tức là Niết bàn Không, Niết bàn Không tức là sanh tử sắc.

………………………………….

A Nan, như chỗ ông nói, bốn đại hòa hợp phát hiện ra các thứ biến hóa trong thế gian.

A Nan, nếu tánh các đại ấy thể chẳng hòa hợp thì không thể trộn lẫn với các đại khác, cũng như hư không không thể hòa hợp với các sắc tướng.

Nếu tánh của các đại là hòa hợp thì đồng như các thứ biến hóa, trước sau hóa thành lẫn nhau, sanh diệt nối nhau, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, sanh sanh diệt diệt như vòng lửa quay tròn, chưa hề dừng nghỉ. A Nan, như nước thành băng, băng trở lại thành nước.

…………………………………

Các đại chẳng hòa hợp nghĩa là các đại mỗi cái có riêng bản chất, nghĩa là có sanh ra, mà có sanh thì có diệt. Còn các đại là hòa hợp thì sanh diệt nối nhau, không ngừng nghĩ, đồng như các thứ biến hóa.
Các đại là sanh diệt thì bao giờ có sự giải thoát khi còn có các đại, còn có thế giới?

Ở mức độ quán chiếu cao hơn thì: Các đại không phải hòa hợp nghĩa là các đại vốn không sanh, vì có sanh mới có hòa hợp. Các đại không phải chẳng hòa hợp nghĩa là các đại vốn không diệt, vì có diệt
mới có chẳng hòa hợp, có bản chất riêng, đứng riêng một mình.

Tất cả hành động thân ngữ tâm của một Bồ tát là không sanh không diệt, đó là sống trong pháp tánh Như Lai tạng, trong Niết bàn vô trụ xứ.

………………………………….

1. Thu địa đại.

Ông hãy xét tánh của địa đại, lớn là đất liền, nhỏ là vi trần, cho đến lân hư trần, do chia chẻ các sắc cực vi nhỏ nhất ra bảy phần mà thành. Nếu chẻ lân hư trần nữa thì thật là tánh hư không.
A Nan, nếu lân hư trần này chẻ ra thì thành hư không, vậy thì biết hư không cũng sanh ra được sắc tướng. Nay ông hỏi do hòa hợp sanh ra các tướng biến hóa trong thế gian vậy ông hãy xét một lân hư trần dùng bao nhiêu hư không hòa hợp lại thành hư trần? Lại, lân hư trần chẻ được thành hư không, thì dùng bao nhiêu sắc tướng để hợp thành hư không? Nếu sắc hợp lại thì hợp sắc không thể thành hư không. Nếu hư không hợp lại thì hợp hư không làm sao thành được sắc. Sắc có thể chia chẻ, chứ hư không làm sao mà hợp được?

Ông vốn chẳng biết trong Như Lai tạng, tánh sắc là Chân Không, tánh Không là chân sắc, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng với lượng hay biết, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tánh tự nhiên. Đó đều là thức tâm phân biệt, so lường, chỉ có trên lời nói, toàn không có thật nghĩa.

…………………………………………

Thế gian thì thấy địa đại cho đến lân hư trần là cái gì cứng đặc, có hình tướng, màu sắc, đặc tính phân biệt. Còn hư không thì rỗng không, không có gì. Sắc là sắc mà không là không, “sắc hợp lại không thể thành hư không, hư không hợp lại làm sao thành sắc được” . Với cái thấy của thức tâm phân biệt đo lường theo vọng tưởng này, thì hòa hợp hay không hòa hợp chỉ là vọng tưởng hý luận.

Vượt lên cái thấy hư vọng của tâm thức là cái thấy của trí huệ.

Sắc và không đều đồng một tánh Như Lai tạng, thanh tịnh bản nhiên, khắp cả pháp giới, tùy theo tâm nghiệp ứng với lượng hay biết mà hiện bày.

Để đi vào Như Lai tạng diệu chân như tánh này hãy tham thiền “tánh sắc là chân không, tánh không là chân sẳc, thanh tịnh bản nhiên, khắp cả pháp giới”. Sắc là chân không, rỗng rang, thấu suốt. Tất cả các pháp vốn là thanh tịnh xưa nay. Thanh tịnh xưa nay nghĩa là xưa chưa từng sanh, nay chưa từng diệt. Khắp cả pháp giới thì chỗ nào mà không thấy nó?

Hãy đứng trước tấm gương Như Lai tạng này. Tất cả các bóng đều là gương, tánh sắc là Chân Không. Gương là tất cả các bóng, tánh Không là chân sắc. Gương và bóng không hai, tất cả đều thanh tịnh
bổn nhiên, đồng khắp pháp giới, đây tức là tâm Phật.

Thấy như vậy, sống bằng thân ngữ tâm như vậy, đây là tu thật tướng Đệ nhất nghĩa đế.

……………………………………….

2. Thu hỏa đại.

A Nan, tánh lửa vô ngã, nhờ ở các duyên. Ông hãy xem trong thành, những nhà chưa ăn cơm, khi muốn nhóm lửa thì tay cầm kính dương toại đưa trước mặt trời mà lấy lửa.
A Nan, phàm gọi là hòa hợp, thì như ta cùng ông và một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ kheo hiện nay hợp thành một chúng.
Chúng tuy là một, nhưng gạn xét về căn bản, thì mỗi người đều có thân thể, danh tánh họ hàng. Như Xá Lợi Phất thuộc dòng Bà la môn, Ưu Lâu Tần Loa thuộc dòng Ca Diếp Ba, cho đến A Nan thuộc dòng Cù Đàm.

A Nan, nếu tánh lửa nhân hòa hợp mà có, thì khi người kia cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa ấy từ trong kính ra, do từ bùi nhùi mà có hay từ mặt trời đến?
A Nan, nếu từ mặt trời đến, thì lửa ấy đốt được bùi nhùi trong tay ông vậy những rừng cây mặt trời đi qua lẽ ra đều bị đốt cả. Nếu từ trong kính ra, thì lửa ấy đã có thể từ kính ra đốt cháy bùi nhùi, vậy tại sao kính không bị chảy. Cho đến cả tay cầm kính không thấy nóng, thì làm sao kính chảy ra đuợc. Nếu do bùi nhùi sanh ra thì cần gì ánh sáng mặt trời và kính tiếp xúc với nhau rồi lửa mới sanh. Ông hãy xét kỹ, kính thì do tay cầm, ánh sáng mặt trời thì trên trời xuống, bùi nhùi do từ đất sanh, lửa từ phương nào đi đến đây? Mặt trời và kính xa nhau, chẳng phải hòa, chẳng phải hợp, chẳng lẽ lửa sáng không từ đâu mà tự có?

Ông vốn chẳng biết trong Như Lai tạng, tánh lửa là Chân Không, tánh Không là chân lửa, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng với lượng hay biết.
A Nan, ông nên biết, người đời nếu có một chỗ cầm kính thì một chỗ có lửa sanh ra, khắp pháp giới cầm kính thì khắp cả thế gian đều có lửa sanh ra. Lửa sanh ra khắp thế gian đâu có phương chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tánh tự nhiên. Đó đều là thức tâm phân biệt so lường, chỉ có trên lời nói, toàn không có thật nghĩa.

………………………………..

Lửa, trên hiện tượng, thì thấy ít nhất là ba nhân duyên, mặt trời, kính, bùi nhùi. Mỗi cái lại có nhiều nhân duyên khác. Nhưng đi đến tận cùng, các nhân duyên chẳng phải hòa, chẳng phải hợp, chẳng phải có, chẳng phải không.

Cho nên lửa chẳng từ đâu mà có, chẳng phải do những nhân duyên hiện tượng hòa hợp mà có, lửa chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên. Tánh lửa là Chân Không, tánh Không là chân lửa, thanh tịnh bản nhiên, cùng khắp pháp giới.

Lửa không cần một nhân duyên nào cả ngoài Như Lai tạng. Như Lai tạng có ở khắp cả nên lửa cũng có ở khắp cả, chỗ nào cầm kính thì chỗ đó có lửa xuất hiện. Thế nên, lửa không có ở đâu cả mà ở đâu
cũng có lửa. Nó là sự biểu lộ trực tiếp của Như Lai tạng diệu chân như tánh. Cho nên thấy lửa là thấy ngay bản tánh của nó, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới. Như thế thấy trực tiếp lửa, không qua nhân duyên, không cho rằng tự nhiên, không qua thức tâm phân biệt, bèn tức thời giải thoát.

Lửa khồng ở đâu cả mà ở đâu cũng có lửa. Đây là Như Lai tạng diệu chân như tánh.

…………………………………

3. Thu thủy đại.

A Nan, tánh nước bất định, khi chảy khi dừng không chừng. Như trong thành Thất La Phiệt, các nhà đại huyễn thuật Ca Tỳ La, Chước Ca La và Bát Đầu Ma, Ha Tát Đa….muốn cầu nước từ mặt trăng để hòa với thuốc huyễn thuật. Các ông ấy trong lúc mặt trăng tròn sáng, tay cầm hạt châu Phương chư, hứng lấy nước trong ánh sáng trăng. Vậy nước ấy từ trong hạt châu ra, do hư không tự có, hay từ mặt trăng đến ?
A Nan, nếu từ mặt trăng đến tức là từ phương xa có thể làm hạt châu ra nước, thì những rừng cây mặt trăng đi qua lẽ ra đều phải chảy nước. Có chảy nước thì cần gì đợi có hạt châu Phương chư? Còn nếu không chảy nước thì rõ ràng nước không từ mặt trăng xuống.

Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong hạt châu thường phải chảy nước, đợi gì trăng sáng lúc nửa đêm? Nếu do hư không mà sanh, thì hư không vô bờ bến, nước cũng không có giới hạn, cõi người đến cõi trời đều chìm ngập, làm sao còn có các loài? Ông hãy xét kỹ, mặt trăng từ trời chiếu xuống, hạt châu do tay cầm, mâm hứng nước do người xếp đặt, vậy nước kia từ phương nào chảy đến đây ? Mặt trăng và hạt châu thì cách xa nhau, chẳng phải hòa, chẳng phải hợp, chẳng lẽ nước kia không từ đâu mà tự có?
Ông vốn chẳng biết trong Như Lai tạng, tánh nước là Chân Không, tánh Không là chân nước, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng với lượng hay biết.

Một chốn cầm châu thì một chốn có nước chảy ra. Khắp pháp giới cầm châu thì khắp pháp giới có nước sanh ra. Nước có khắp thế gian mà nào có nơi chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tánh tự nhiên. Đó đều là thức tâm phân biệt, so lường, chỉ có trên lời nói, toàn không có thật nghĩa.

……………………………

Nước thì vô tự tánh nên chỗ nào cũng có thể có nước, vô tự tánh nên toàn khắp. “Một chỗ cầm châu thì một chỗ có nước, khắp pháp giới cầm châu thì khắp pháp giới có nước”, chỗ nào cũng có nước nghĩa là chỗ nào cũng có “tánh nước là Chân Không, tánh Không là chân nước”.

“Nước có khắp thế gian”, như thế chúng chẳng phải tánh nhân duyên. Trong tánh tất cả là tánh, đâu cần nhân duyên gì nữa. “Mà nào có nơi chốn”, như thế chẳng phải tánh tự nhiên, vì tự nhiên là có sẵn ở một nơi nào đó. Tánh thì chẳng có nơi chốn, cho nên xem nó là tự nhiên ở một nơi nào đó, là mê lầm.

Đây là “nghĩa trung đạo rốt ráo, không còn các điều hý luận”.

Nghĩa ấy phải thật thấy, phải chứng ngộ. Nước là Như Lai tạng không là gì cả mà là tất cả. Cho nên thấu hiểu được nước là thấu hiểu Như Lai tạng.

…………………………………….

4. Thu phong đại.

A Nan, tánh gió không có tự thể, khi động khi tĩnh, bất thường, ông thường sửa y, khi ở trong đại chúng, góc y Tăng già lê động đến người bên cạnh thì có chút gió phất đến mặt người kia. Gió ấy là từ góc cà sa ra, từ hư không mà phất, hay do từ mặt người kia sanh?
A Nan, nếu gió ấy phất ra do góc áo cà sa thì ông đã đắp gió, cái y phải bay rời khỏi thân ông. Nay ta thuyết pháp ở trong hội này rũ cái y xuống, ông xem cái y của ta gió ở chỗ nào? Chẳng lẽ trong y lại có chỗ chứa gió?
Nếu gió ấy do hư không sanh ra thì khi y ông không động, sao gió chẳng phất. Tánh hư không thì thường còn, gió phải thường sanh. Nếu không có gió lẽ ra hư không phải diệt mất. Gió diệt mất có thể thấy, hư không diệt thì có tướng dạng gì. Nếu có sanh diệt thì đâu gọi là hư không, còn gọi là hư không thì làm sao có gió sanh ra được?
Nếu gió ấy sanh ra từ mặt người bị góc y phất, thì gió từ mặt người ấy sanh ra lẽ ra phải phất vào ông, sao lại tự sửa y mà gió phất ngược vào người kia, hư không lặng yên chẳng hề lay động, thì gió từ phương nào phát động đến đây? Tánh gió và tánh hư không cách biệt, chẳng phải hòa, chẳng phải hợp, chẳng lẽ tánh gió không do đâu mà tự có.

Ông vốn chẳng biết trong Nhu’ Lai tạng, tánh gió là Chân Không, tánh Không là chân gió, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh, ứng với lượng hay biết.
A Nan, như một mình ông hơi phất cái y thì có chút gió bay ra, khắp cả pháp giới đều phất thì khắp cõi nước đều có gió sanh ra. Phong đại khắp cả thế gian mà không có phương chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tánh tự nhiên. Đó là thức tâm phân biệt so lường, chỉ có trên lời nói, toàn không có thật nghĩa.

……………………………

Gió ở khắp cả mà không ở đâu cả, chỉ tùy theo nghiệp mà phát hiện.

Gió vô tự tánh nên gió ở khắp cả, vì ở khắp tất cả nên đó là Như Lai tạng diệu chân như tánh thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp Pháp giới. Hiện quán (thấy trực tiếp, thấy thẳng) như vậy bèn thấy tánh.

Tất cả các tướng, tất cả các đại đều là tánh, có gì là tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên?

……………………………….

5. Thu không đại.

A Nan, hư không không có hình tướng, nhân sắc mà hiển ra. Như trong thành Thất La Phiệt ở xa sông, những người dòng Sát Đế Lợi, dòng Bà la môn, dòng Tỳ Xá, dòng Thủ Đà hay dòng Phả La Đọa, dòng Chiên Đà La….khi dựng nhà mới thì đào giếng để lấy nước. Đào lên một thước đất thì trong ấy có một thước hư không, như vậy đào lên được một trượng, thì trong đó lại được một trượng hư không. Hư không cạn hay sâu tùy theo đào lên ít hay nhiều. Hư không ấy nhân đất mà ra, nhân đào mà có hay không nhân gì mà tự sanh?

A Nan, hư không đó không do gì mà tự sanh thì trước khi chưa đào đất, sao chỗ ấy không trống rỗng mà chỉ thấy đất đai, chẳng có thông suốt? Nếu nhân đất mà ra, thì khi đất được moi ra phải thấy có hư không vào. Nếu đất đã ra trước mà không thấy hư không vào, sao nói hư không nhân đất mà có. Còn nếu không ra không vào thì hư không và đất vốn không khác nhân duyên. Không khác tức là đồng, thì khi đất ra sao lại chẳng thấy hư không ra. Nếu nhân đào mà ra, thì đào phải có ra hư không chớ chẳng phải ra đất. Nếu chẳng phải nhân đào mà có ra, thì đào tự ra đất, sao lại thấy hư không?

Ông hãy xét xem, xét kỹ xem kỹ, đào là do tay người, tùy nơi vận chuyển, đất nhân nơi mặt đất mà dời đi, như thế hư không nhân đâu mà ra? Đào và hư không, một cái thật, một cái hư, không tác dụng gì với nhau, chẳng phải hòa, chẳng phải hợp, chẳng lẽ hư không không từ đâu mà tự có?
Nếu hư không ấy tánh nó tròn đầy toàn khắp, vốn không động lay thì phải biết rằng hiện giờ ngay trước mắt đây, hư không và đất, nước, lửa, gió đều gọi là năm đại, tánh chân thật viên dung, đều là
Như Lai tạng, vốn không sanh diệt.
A Nan, tâm ông mê mờ, chẳng ngộ bốn đại nguyên là Như Lai tạng. Ông hãy nhìn kỹ ngay hư không là ra, là vào hay chẳng ra chẳng vào.

Ông hoàn toàn không biết trong Như Lai tạng, tánh giác là Chân Không, tánh Không là chân giác, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng với lượng hay biết.
A Nan, như một cái giếng trống không thì hư không có trong một cái giếng, hư không mười phương lại cũng như vậy. Không đại tròn đầy khắp mười phương, đâu có phương chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện.Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tánh tự nhiên. Đỏ đều là thức tâm phân biệt so lường, chỉ có trên lời nói, toàn không có thật nghĩa.

………………………………….

Hư không không sanh từ đâu, nó là không chỗ trụ, như chính Như Lai tạng diệu chân như tánh không chỗ trụ.Vì không chỗ trụ nên không chỗ nào có hư không mà không chỗ nào không có hư không.

Điều khác biệt ở đây là không nói, ‘tánh không đại là Chân Không, tánh Không là chân không đại’ mà nói ‘tánh giác là Chân Không, tánh Không là chân giác’, vì không đại hay hư không không phải là không có gì cả, không là gì cả, một thể rỗng không chết khô, mà hư không là tánh giác, ở đâu có hư không thì ở đó có tánh giác.

Năm đại bản tánh tròn đầy toàn khắp, vốn không động lay, chân thật, viên dung đều là Như Lai tạng vốn không sanh không diệt. Đất, nước, lửa, gió, hư không đều là sự biểu lộ của diệu chân như -tánh.
Đây là điều Mật giáo gọi là Ngũ Trí Như Lai, mỗi đại đều có bản tánh là một vị Phật.

Hóa ra sanh tử cho do thức tâm phân biệt so lường, chỉ là ngôn ngữ danh tự mà vọng thấy ra. Xưa chân như, nay chân như, mai sau chân chư, thì vọng thấy sanh tử ở chỗ nào?

………………………………………

6. Thu kiến đại.

A Nan, cái biết của kiến đại thì không phân biệt giống như không biết, nhân sắc không mà có. Như hiện nay ông ở trong rừng Kỳ Đà, sớm mai thì sáng đêm thì tối. Đến lúc nửa đêm có trăng thì sáng, không trăng thì tối. Những tướng sáng tối ấy nhân cái thấy phân tích ra. Cái thấy ấy với tướng sáng tối và hư không là đồng một thể hay chẳng đồng một thể? Hoặc đồng vừa chẳng đồng, hoặc khác cũng chẳng khác?

A Nan, nếu cái thấy ấy đồng với sáng tối và hư không nguyên là một thể, thì sáng và tối tiêu diệt lẫn nhau, khi tối thì không sáng, khi sáng thì không tối. Nếu cái thấy cùng một thể với cái tối, thì khi sáng cái thấy phải tiêu mất. Nếu cái thấy cùng một thể với cái sáng, đến khi tối nó phải diệt. Như vậy làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối? Còn nếu sáng và tối khác nhau, mà cái thấy thì không sanh diệt, làm sao thành một thể được?
Nếu cái thấy này không đồng một thể với cái sáng và cái tối thì lìa ngoài cái sáng, cái tối và hư không, ông hãy phân tích cội nguồn của cái thấy có hình tướng gì? Lìa ngoài sáng, tối và hư không, cái cội nguồn của cái thấy ấy cũng đồng là lông rùa, sừng thỏ. Nếu ba thứ sáng, tối và hư không hoàn toàn khác nhau thì do đâu lập thành cái thấy?

Sáng và tối trái ngược nhau làm sao hoặc đồng được. Lìa ngoài ba thứ sáng tối và hư không, cái thấy vốn không có gì, thì làm sao hoặc khác được? Phần hư không, phần cái thấy vốn không bờ mé, sao chẳng phải đồng? Thấy tối thấy sáng, tánh nó không thay đổi, sao chẳng phải khác?
Ông hãy xét kỹ, quan sát tinh vi, xem cho kỹ, thấy cho cùng, sáng do mặt trời, tối từ đêm không trăng, thông thuộc hư không, bít thuộc đất đai, thì cái thấy như thế do đâu mà có? Cái thấy thì có biết, hư không thì vô tri, chẳng phải hòa chẳng phải hợp, chẳng lẽ cái thấy không do đâu mà tự phát ra?

Như sự thấy nghe hay biết, tánh viên mãn toàn khắp, vốn chẳng động lay thì phải biết hư không vô biên bất động cùng với bốn đại đất, nước, lửa, gió lay động, đều gọi là sáu đại, bản tánh chân thật viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không có sanh diệt. 
A Nan, tâm ông trôi chìm, không ngộ những sự thấy, nghe, hay, biết của ông vốn là Như Lai tạng. Ông hãy nhìn thấy cái thấy, nghe, hay, biết này là sanh hay là diệt, là đồng hay là khác, là chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, hay chẳng phải đồng chẳng phải khác?

Ông chưa từng biết, trong Như Lai tạng cái thấy là tánh giác minh, tánh giác minh là cái thấy, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng với lượng hay biết. Như một căn mắt thấy khắp pháp giới, thì cái biết nghe, biết ngửi, biết nếm, biết xúc chạm, biết các pháp đều là cái diệu đức sáng rỡ toàn khắp pháp giới, tròn đầy cả mười phương hư không, đâu có phương chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tánh tự nhiên. Đó đều là thức tâm phân biệt so lường, chỉ có trên lời nói, toàn không có thật nghĩa.

……………………………….

Bốn đại đất nước lửa gió dễ dàng thấy ở bên ngoài, cho nên chỉ nói “ông hãy xét kỹ”. Còn từ hư không cho đến kiến đại, thức đại thì càng ngày càng vi tế, càng đi vào trong, cho nên nói thêm “ông hãy xem xét, xét kỹ, xem kỹ, thấy cho cùng”. Bốn đại đầu thì dễ thấy vì cụ thể, nhưng lại khó thấy sự toàn khắp pháp giới của chúng. Ba đại sau khó thấy vì không cụ thể, nhưng lại dễ thấy sự toàn khắp của chúng.

Chỉ cần Chỉ Quán, tham thiền về một đại cho thấu triệt, người ta sẽ thấy biết thực sự Như Lai tạng.

Kiến đại vốn thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới nhưng vì bị nhiễm ô bởi những kiến chấp ngã, pháp mà thành vọng thấy.

Để trở lại với “kiến giác vô tri”_vô tri, vì không có một chủ thể biết và một đối tượng được biết hãy nhìn bằng một cái thấy không có trung tâm và chu vi. Không có trung tâm, đó là thanh tịnh bản nhiên.

Không có chu vi, tức là toàn khắp pháp giới. Đây là tánh thấy, xưa nay chưa từng lìa cách hở mỗi người bằng cọng lông sợi tóc.

Thấy mà không có tướng nào đề thấy, không bám chấp, đó là “kiến giác vô tri”, cũng tức là tánh thấy. Còn tánh thấy mà có tướng để thấy rồi bám chấp bèn lọt vào cái thấy “trôi chìm”, sanh tử.

Kinh điển thường nói xa lìa, viễn ly. Xa lìa là xa lìa cái thấy có tướng, chấp tướng. Xa lìa được đến đâu thì tánh thấy hiện ra đến đó.

Khi đã xoay các tướng về nguồn tánh, xoay các đại về nguồn tánh của chúng thì “những sự thấy nghe hay biết và bốn đại viên mãn toàn khắp, vốn chằng động lay, bản tánh chân thật viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sanh diệt”.

Khi ấy cái biết của các giác quan là cái “diệu đức sáng rỡ toàn khắp pháp giới, tròn đầy cả mười phương hư không”, bấy giờ “những sự thấy nghe hay biết của ông vốn là Như Lai tạng”, thấy, nghe, hay, biết cái gì thì cái đó là Như Lai tạng. Khi ngộ được “cái thấy là tánh giác minh, tánh giác minh là cái thấy”, lúc ấy nhìn cái gì thì cái đó cũng là giác, là minh.

Ngập mắt, ngập tai.. .là Như Lai tạng, còn gì hơn được nữa?

Toàn cả ba cõi sanh tử là cái diệu đức sáng rỡ toàn khắp pháp giới của Chính Mình.

……………………………….

7. Thu thức đại.

A Nan, tánh thức không có nguồn gốc, nhân nơi sáu thứ căn và trần mà hư vọng hiện ra. Nay ông hãy xem khắp thánh chúng trong hội này, dùng con mắt lướt qua. Mắt ông nhìn khắp tất cả, chỉ như bóng trong gương, không phân tích riêng biệt. Cái thức của ông ở trong đó, lần lượt nêu chỉ ra, đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, đây là Mục Kiền Liên, đây là Tu Bồ Đề, đây là Xá Lợi Phất. Cái thức nhận biết này là sanh từ cái thấy, là sanh từ các tướng, sanh từ hư không, hay là không nhân gì, đột nhiên xuất hiện?

A Nan, nếu thức của ông sanh từ trong cái thấy, nếu không có các tướng sáng tối và sắc không, bốn thứ đã không có thì cái thấy của ông cũng vốn không. Tánh thấy đã không, do đâu có ra cái thức? Nếu thức của ông sanh ra từ các tướng, chứ không từ cái thấy, thì đã không thấy sáng cũng không thấy tối. Sáng tối đã không thấy thì cũng không có sắc không. Các tướng kia còn không có, thức do đâu phát sanh?

Nếu thức sanh nơi hư không, chẳng từ tướng chẳng từ cái thấy, thì ngoài cái thấy thức không thể phân biệt, tự chẳng biết sáng tối sắc không. Ngoài các tướng thì không còn duyên, thì sự thấy, nghe, hay, biết không có chỗ để an lập. Ngoài hai thứ căn trần, nếu là không thì đồng với không có gì hết, còn nếu là có thì chẳng đồng như các vật, dầu cho có phát ra cái thức của ông thì đâu phân biệt được gì? Nếu thức không nhân gì mà bỗng nhiên phát ra, thì tại sao giữa trưa lại không biết phân biệt để thấy mặt trăng sáng?

Ông hãy suy xét kỹ càng, tường tận vi tế, cái thấy gá vào con mắt của ông, các tướng trả về cho trần cảnh, cái gì có tướng trạng thì thành có, cái gì không có tướng thì thành không, vậy cái thức duyên vào đâu mà có ra? Cái thức thì động, cái thấy thì tĩnh, chẳng phải lìa chẳng phải hợp, cái nghe, cái ngửi, cái hay, biết cũng lại như vậy, chẳng lẽ cái thức không duyên vào đâu mà tự có ra?
Nếu cái thức này không do đâu, thì phải rõ biết, cái thức đại và cái kiến đại thấy nghe hay biết vốn tròn đầy trong lặng, bản tánh không từ đâu mà có, cùng với hư không, đất nước lửa gió, gọi chung là bảy đại, tánh chân thật viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sanh diệt.

A Nan, tâm ông thô sơ trôi nổi, không ngộ cái thức rõ biết các sự thấy nghe vốn là Như Lai tạng. Ông hãy nhìn xem sáu cái thức này là đồng hay khác,  là không hay có, là chẳng phải đồng, chẳng phải khác, là chẳng phải không, chắng phải có?
Ông vốn không biết trong Như Lai tạng tánh thức là rõ biết,
tánh biết sáng tỏ là chân thức, cái biết mầu diệu, trong lặng, toàn khắp pháp giới, hàm chứa và xuất ra mười phương hư không, nào có phương chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tánh tự nhiên. Đó đều là thức tâm phân biệt so lường, chỉ có trên lời nói, toàn không có thật nghĩa.

…………………………………

Thức không do đâu, vô tự tánh, nên thức toàn khắp pháp giới. Toàn khắp pháp giới nên cùng với các đại kia tánh chân thật viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sanh diệt.

Thấy Bồ tát Văn Thù, các A La Hán Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất… cho đến các chúng sanh bằng cái thấy của tấm gương, “mắt ông nhìn khắp tất cả, chỉ như bóng trong gương, không phân tích riêng biệt”, bèn “ngộ cái thức rõ biết các sự thấy nghe vốn là Như Lai tạng Đại viên cảnh tri”. Đây gọi là chuyển thức thành trí, toàn thức là trí.

“Tánh thức là rõ biết (minh tri), tánh giác sáng tỏ (giác minh) là chân thức”. Tánh thức hay chân thức là sáng tỏ (minh) và biết (tri), đó chính là tánh giác, hàm chứa và xuất ra mười phương hư không. Trong Như Lai tạng, tất cả thức là trí, sáng tỏ, rõ biết, mắt tai nhìn nghe cái gì cũng tức là nhìn nghe Như Lai tạng.

Bảy đại là Như Lai tạng. Lấy thí dụ tấm gương tâm ở trên, thì :
_ Bốn đại đất nước lửa gió là các bóng trong gương
_ Đại hư không là sự trống rỗng bao la của tấm gương
_ Kiến đại là tánh sáng tỏ (minh) của gương
_ Thức đại là tánh biết (giác) của gương

Bảy đại là một, là “diệu đức sáng rõ, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, viên mãn cả mười phương hư không, đâu có phương chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện”.

Bảy đại chỉ là một tấm gương : các bóng trong gương là tấm gương, sự trống rỗng bao la là của tấm gương, tánh sáng tỏ là của tấm gương, tánh biết là của tấm gương. Một tấm gương duy nhất, đó là Nhất Chân Pháp Giới hay Đại viên cảnh trí.

Chuyển tất cả các đại thành một tấm gương, đó là như trước đã nói, “chuyển vật tức đồng Như Lai”.

……………………………………

ĐỐN NGỘ PHÁP THÂN VÀ PHÁT NGUYỆN.

Lúc bấy giờ A Nan và cả đại chúng nhờ Phật Như Lai vi diệu chỉ bày, thân tâm rỗng rang, được không gì chướng ngại. Cả đại chúng ấy, mỗi người đều tự biết tâm đầy khắp mười phương. Thấy mười phương Không như xem chiếc lá trong bàn tay, tất cả sự vật trong thế gian đều là bản tâm giác ngộ sáng tỏ mầu nhiệm. Tâm tánh viên mãn khắp cả, trùm chứa mười phương cõi nước.
Xem trở lại cái thân do cha mẹ sanh, như một hạt bụi nhỏ lơ lửng như còn như mất trong hư không mười phương. Như biển lớn lặng trong nổi trôi một bọt nước, khởi diệt chẳng màng.

Rõ ràng tự biết vào được tâm thường trụ bất diệt mầu diệu xưa nay. Được cái chưa từng có, bèn chắp tay lễ Phật, ở trước Như Lai nói kệ xưng tán Phật.

……………………………….

Đưa được các ấm, giới, nhập, các đại về Như Lai tạng nghĩa là thấy thật tướng của các pháp ấy là Như Lai tạng, bèn thật biết Như Lai tạng hay Pháp thân của tất cả chư Phật. Trong Như Lai tạng, sự vật gì trong thế gian cũng là Như Lai tạng. Nói cách khác, Niết bàn biến tất cả thế gian thành Niết bàn. Tất cả sự vật thành Chân, thanh tịnh bản nhiên, toàn khăp pháp giới.

“ Tự biết tâm đầy khắp mười phương, thấy mười phương Không như xem chiếc lá trong bàn tay, tất cả sự vật thế gian đều là bản tâm giác ngộ sáng tỏ mầu nhiệm” , đây là sự về nguồn đích thực, các tướng sanh tử trở về nguồn tánh. Đây là chỗ chứng nghiệm thật sự pháp giới Chân Không Diệu Hữu.

Đốn ngộ là thấy được Như Lai tạng Pháp thân, cả Đại thừa và Nhị thừa đều gọi là Kiến đạo vị, địa vị thấy đạo. Duy thức tông gọi là Thông đạt vị, thông đạt Pháp thân. Đây là con đường Thấy, sau đó là
con đường thiền định (Duy thức tông gọi là Tu tập vị), đến cấp độ không tu nữa (Vô học của Nguyên thủy, và Vô công dụng đạo của Đại thừa), cuối cùng thành Phật.

Đốn ngộ hay đại ngộ ít nhất phải đạt đến Kiến đạo vị, tức là cấp độ thứ nhất trong mười địa của Pháp thân là Hoan Hỷ địa. Ở cấp độ này mới thật sự thấy biết Pháp thân hay Chân Như, “ như vậy gọi là
trụ bậc Bồ tát Hoan Hỷ địa, vì đã tương ưng với Chân Như bất động” {Phẩm Thập địa, Kinh Hoa Nghiêm). Từ địa này mới vào hàng thánh, từmg bước lìa khỏi hẳn sanh tử, giải thoát và giác ngộ.

Để đạt đến đốn ngộ Pháp thân Như Lai tạng này chúng ta thấy Đức Phật đã đưa ngài A Nan đến cửa như thế nào. Khi thì chỉ thẳng, khi thì lý luận bác bỏ, khi thì phá tướng, khi thì hiển tánh, để tiêu trừ
phiền não chướng và sở tri chướng nơi tâm ngài A Nan, cuối cùng thu tất cả về nền tảng Như Lai tạng, tức là đưa ngài A Nan vào Như Lai tạng.

Ở đây sự diễn tả việc đốn ngộ Pháp thân của ngài A Nan là chi tiết và đẹp đẽ vào hàng bậc nhất trong số những diễn tả về kinh nghiệm ngộ của các vị tu chứng của mọi tông phái Phật giáo. Nói theo sự xác định của kinh điển Pali, tầng thánh thứ nhất là Tu Đà Hoàn (Nhập lưu) có ba yếu tố :

_ Giải trừ thân kiến : “nhìn trở lại cái thân cha mẹ sanh, như hạt bụi lơ lững như còn như mất trong hư không mười phương, như một bọt nước trong biển lớn lặng trong”.

_ Hết nghi : vì đã thấy biết trực tiếp “bản tâm giác ngộ sáng tỏ mầu diệu, viên mãn khắp cả, trùm chứa mười phương cõi nước, tất cả sự vật trong thế gian đều là bản tâm sáng tỏ mầu nhiệm”.

_ Bỏ hết giới cấm thủ. Giới cấm thủ là chạy theo những lối tu sai lầm hoặc là bắt chước bề ngoài mà không biết nội dung của chúng là gì. Bỏ được giới cấm thủ vì từ nay đã thấy Con đường đi qua mười
địa của Pháp thân.

Với Thiền tông, phải vượt qua quan đầu tiên mới gọi là ngộ, vào được Pháp thân. Quan đầu tiên này là Tổ sư quan hay Sanh tử quan.

Người tu hành chúng ta cần đọc kỹ đoạn này để có thêm tin tưởng, thêm ngưỡng vọng, thêm tinh tấn để vượt qua Bốn gia hạnh vị mà vào Pháp thân. Sự diễn tả này giúp cho chúng ta rất nhiều để biết
một kinh nghiệm tâm linh của mình có phải là thật ngộ hay không. Đánh giá sai lầm chỉ làm chúng ta thêm chậm chạp. Cách tốt nhất là nhờ sự thẩm tra của các vị thầy có thẩm quyền.

………………………………………

Diệu trạm tổng trì bất động tôn
Thủ Lăng Nghiêm vương đời ít có
Tiêu điên đảo tưởng trong ức kiếp
Chẳng trải tăng kỳ được Pháp thân.

………………………………………..

Đây là bài kệ ngài A Nan xưng tán Đức Phật Thích Ca, bổn sư của ngài, đang ở trước ngài. Nhưng Đức Phật cũng là một với Pháp thân của ngài, cũng là Pháp thân của chư Phật, nên đây vừa xưng tán
Sắc thân Phật vừa xưng tán Pháp thân Phật. Pháp thân ấy ngài A Nan cũng vừa thấy biết trong tâm mình, bởi vì không thấy biết Pháp thân nơi mình thì làm sao xưng tán Pháp thân của Đức Phật và của chư Phật.

Cái trong lặng nhiệm mầu (diệu trạm) là sự thanh tịnh trong lặng và bất động mà tất cả sanh tử không ô nhiễm được. Tổng trì, chữ dharani, phiên âm là đà la ni. Tổng trì là gồm trọn, dung nhiếp hết tất cả vũ trụ. Đây là Như Lai tạng diệu chân như tánh, cũng là thật tướng của Kinh Thủ Lăng Nghiêm.

Thấy được cái đó thì tức khắc bao nhiêu tưởng điên đảo trong ức kiếp đều tiêu tan. Cái đó cũng được gọi là Pháp thân. Sự đốn ngộ tức thời mạnh đến nổi a tăng kỳ kiếp thứ nhất tiêu tan mất, cho nên hoan hỷ nói “chẳng trải tăng kỳ”. Một ý nghĩa nữa của “chẳng trải tăng kỳ” là Pháp thân vốn có sẳn nơi các ấm, giới, nhập, nơi các địa, nghĩa là nơi mọi không gian thời gian, cho nên gặp gỡ cái vốn có sẳn thì hết sức ngạc nhiên và hoan hỷ, nhưng chẳng nhọc công nên nói là “chẳng trải”.

……………………………………

Nguyện nay đắc quả thành Bảo Vương

về độ như thế, hằng sa chúng
Thâm tâm phụng sự vô số cõi
Thế mới gọi là báo Phật ân

………………………………………

Khi biết được nền tảng chung của chúng sanh, thế giới và chư Phật là Pháp thân hay Như Lai tạng thì phát nguyện, trên thì phụng thờ chư Phật, dưới thì phụng sự chúng sanh. Bây giờ mới thực sự phát
nguyện vì đã thấy Nền tảng, đã đủ sức đi Con đường lợi mình lợi người, để đến Quả.

Hoan hỷ phát nguyện, sung sức phát nguyện đi trên con đường Bồ tát cho đến cuối cùng, con đường thành Phật độ tất cả chúng sanh.Thành Phật như kinh Đại Bát Nhã nói, là đầy đủ “mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp bất cọng, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả”.

Bốn hoằng thệ nguyện là việc báo ơn Phật :
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Chỉ có vị đã đạt được một phần Pháp thân mới thấy bốn lời nguyện này là thật, mà không kinh sợ, không thấy mệt mỏi, trái lại còn hoan hỷ, như ngài A Nan khi đạt đến Hoan Hỷ địa. Sở dĩ như thế
vì từ đây Trí Bi chân thật đi song đôi với nhau. Bi là độ tất cả chúng sanh và Trí là thấy chúng sanh như huyễn, bản chất là Chân Như tánh. Thê nên độ là độ chúng sanh như thị : “ về độ như thế hằng sa chúng”.

………………………………………..

Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho
Đời ác năm trược, thề vào trước
Còn một chúng sanh chưa thành Phật
Rốt chẳng nơi kia giữ Niết bàn.

…………………………………………

Cứu độ chúng sanh cho đến tột đời vị lai, kể cả đời ác năm trược cũng xin vào trước, đại bi này sở dĩ dám làm và làm được vì từ đây Bồ tát ở trong Như huyễn tam muội. Nói như Kinh Kim Cương : “cứu
độ tất cả chúng sanh mà không thấy thật có chúng sanh nào được cứu độ”

……………………………………………..

Đại hùng, đại lực, đại từ bi
Ngưỡng mong xét trừ lầm vi tế
Khiến con sớm lên Vô thượng giác
Nơi mười phương cõi ngồi đạo tràng.

…………………………………………………..

Đức Phật đại hùng đại lực đại từ bi là chỗ ngưỡng vọng của các Bồ tát đã đạt một phần Pháp thân. Bồ tát hạnh là để thực hiện đại hùng, đại lực, đại từ bi của bậc Giác ngộ.

Xin Đức Phật xét trừ cho những lỗi lầm vi tế, bởi vì mới vào Sơ Hoan Hỷ địa là mới được căn bản trí hay tự nhiên trí hay vô sư trí, ngộ được tánh Không hay tánh Như, nhưng vẫn còn những lỗi lầm vi
tê chấp ngã chấp pháp tạo thành phiền não chướng và sở tri chướng che mờ tâm địa. Phần sau của Kinh sẽ nói về sự diệt trừ những lỗi lầm vi tế này.

Vô thượng giác là sự thành Phật có giá trị khắp cả mười phương, đại trí tỏa sáng khắp mười phương, đại bi cứu độ khắp mười phương. Có như thế mới thành Đại Trí và Đại Bi được.

…………………………………..

Tánh hư không còn có thể tiêu
Tâm kim cương không hề động chuyển.

…………………………………….

Lời nguyện này được đặt trong Pháp thân tánh Không nên nó là tâm kim cương không thối chuyển, không lay động. Tùy theo lời nguyện vững chắc đến đâu, trở thành kim cương đến đâu thì hành giả
đi vào pháp giới kim cương đến đó.

Hết Quyển 3

 

 

SHARE:

Trả lời