THIỀN ĐỊNH: HỢP NHẤT NGÀY VÀ ĐÊM

SHARE:


Câu ‘thiền định hợp nhất ngày và đêm’ tác động trên cả hai cấp độ nghĩa đen và nghĩa ẩn dụ. Thứ nhất, nghĩa đen, đối với hai mươi bốn giờ một ngày, chúng ta an trụ trong và là tánh giác, quan sát hoạt động của thân, ngữ và tâm, trong nó nhưng không phải của nó. Nhưng thứ hai, một cách ẩn dụ, chúng ta an trụ tỉnh giác bất kể phẩm tính tạm thời của khoảnh khắc; nếu là thời gian ban ngày chúng ta thoát khỏi sự can thiệp của nghiệp, và khi thân tâm làm việc với sự sáng tỏ tốt nhất, chúng ta mất cảm thức cái tôi, thư giãn trong bất cứ hoạt động lợi lạc nào sẽ đem đến niềm vui trong bản tánh của tâm. Nếu, ngược lại, trí nhớ đưa chúng ta vào những chiều sâu nơi bị nghiệp hành hạ, nơi cảm xúc căn bản thuộc thú vật lúc nhúc và điều khiển chúng ta, và trí nhớ của những đời quá khứ, tưởng đã quên hẳn, làm mờ rối tánh giác của chúng ta, dầu mở mắt, nghiệp vẫn tự bộc lộ và lại thúc đẩy chúng ta từ đêm tối vào ‘ánh sáng ban ngày’.
Tuy nhiên, Dudjom Rinpoche có trong tâm nhiều hơn chức năng không thiền định căn bản của Đại Toàn Thiện. Trước hết ngài phân biệt ba điểm hay ba giáo huấn, mà trong nhiều dòng phái tạo thành nền tảng của thực hành thiền định nguyên thủy, đặc biệt giáo huấn của Dza Patrul trong thế kỷ 19 (Tsiksum Nedek). Nếu chúng ta liên hệ nguyên tắc đầu tiên, ‘nhận biết’, với ‘cái thấy’, nó tạo nên kinh nghiệm nhập môn; thứ hai, ‘tập chú đơn nhất’ (hay tin chắc) liên hệ với thiền định, chúng ta có một thực hành liên tục hai mươi bốn giờ một ngày; và thứ ba ‘giải thoát chắc chắn’, liên hệ với hoạt động, nó là hoàn tất, chúng ta có một sadhana Đại Toàn Thiện trọn vẹn. Có lẽ điều ấy đã đủ. Nếu không, bấy giờ hãy xem ba giáo huấn rõ ràng là những phương diện của một khoảnh khắc không có thời gian. Thứ nhất là sự nhận biết căn bản của kinh nghiệm nhập môn; thứ hai là bản tánh của mọi kinh nghiệm là rạng rỡ hay ánh sáng, và thứ ba là sự giải thoát như là hành động, đó là sự hoàn tất của mọi tri giác khoảnh khắc và chúng ta gọi là lòng bi (tujé). Nếu chúng ta liên kết ba phương diện này với đoạn trước, bấy giờ nhận biết bản tánh của tâm là tinh túy; tập chú đơn nhất vào sáng tỏ hay rạng rỡ là bản tánh; và giải thoát chắc chắn đi cùng mỗi khoảnh khắc của nở hoa bi mẫn. Dùng ẩn dụ khác, chỉ thành công một phần, nhận biết bản tánh của tâm là gốc rễ, tập chú đơn nhất là thân và giải thoát chắc chắn là hoa.
Từ một quan điểm khác, Dudjom Rinpoche soi sáng ba nguyên tắc rõ ràng này như vầy:
Tự nhận biết
Tự nhận biết là tánh giác nội tại của hiện diện nguyên sơ
(tánh giác hiện diện), và đó chỉ là tri giác bình thường của cái
bây giờ và tính nội tại của tư tưởng tạm thời.

Tập chú đơn nhất
Mọi kinh nghiệm của sanh tử/ niết bàn bất kỳ nào, mọi hiện tướng, là sự nở hoa của hiện diện nội tại vốn sẵn; nó không gì khác hơn là trò chơi tự do không dứt của hiện diện thanh tịnh.
Giải thoát chắc chắn
Mọi tư tưởng, thô hay tế, dù thế nào, được nhận biết tức khắc khi nó sanh khởi và đồng thời tan vào khoảng bao la của hiện diện trống không của pháp thân.
Dùng ba giáo huấn chính xác này một cách cá nhân, liên hệ chúng với kinh nghiệm cá nhân trong tại đây và bây giờ, bấy giờ ‘hiểu bản tánh của tâm’ sẽ ám chỉ kinh nghiệm nhập môn của chúng ta. Chính thấu hiểu như vậy là yếu tố nguồn gốc thúc đẩy sự quan tâm thích thú Phật giáo của chúng ta và nhất là sự mê hoặc của chúng đối với Đại Toàn Thiện – đặc biệt nếu chúng ta sinh gần sau Đại chiến Thế giới thứ Hai.
Định nghĩa này là một phân tích ba ngôi mở ra khoảnh khắc của kinh nghiệm nhập môn bản tánh của tâm một cách trí năng, nhưng như trong Tia Sét Đánh, ngài giảm đến mức tối thiểu cú đánh hiện sinh nơi kinh nghiệm hiện thực ấy. Tuy nhiên, rõ ràng bản thân Dorje Zhonnu tượng trưng cho bản tánh của tâm và sự tương tục của nó. Kinh nghiệm nhập môn là phi thường, nhưng ở đây được giải thích theo ba phần với ba phương diện hay cấp độ nhận biết: thứ nhất là hoàn tất toàn bộ nên bất kỳ sự trở lại nào vào mê lầm là không thể; thứ hai là một nhận biết thất thường đến và đi, đôi khi cho một kinh nghiệm về tính bất nhị có thể diễn tả như Dorje Zhonnu và đôi khi để chúng ta lìa xa khỏi kinh nghiệm ấy – ‘bây giờ chúng ta thấy nó nhưng bây giờ chúng ta không’; và thứ ba là một kinh nghiệm nhập môn cho một chứng ngộ hay nhận biết tràn ngập về bản tánh của tâm, nhưng chỉ là một kinh nghiệm mạnh mẽ nhất thời rồi tan biến không bao giờ trở lại. Hầu như chắc chắn nhất, bởi vì chúng ta đang đọc bình giảng Dzogchen này, chúng ta được ban phước với một nhận biết thất thường và rơi vào phạm trù thứ hai.
Giáo huấn chính xác thứ hai ám chỉ thiền định hai mươi bốn giờ một ngày, là một tập chú đơn nhất hay có một ý định đơn nhất. Tốt nhất, thiền định có một tập chú đơn nhất không tự ý thức (không thiền định) soi chiếu trong mọi khoảnh khắc của hai mươi bốn giờ, ‘đi, ngủ, ăn, đại tiện’. Trước hết, hãy xem nguyên tắc này ám chỉ một thói quen của năm thời hai giờ của thiền định chỉ ngồi trong mỗi thời kỳ hai mươi bốn tiếng và theo những giáo huấn của lama.
Khi thiền định này thoát khỏi tự – ý thức, khi thiền định trở thành không thiền định, chúng ta đi vào không thiền định được áp dụng cho hai mươi bốn giờ không cách hở. Ở đây chúng ta có một tự tin kiên cố, không cố ý, bất cứ cái gì đi vào sáu trường giác quan đều tự động chuyển hóa vào khoảnh khắc nó sanh khởi, cũng như sự băng ngang của một con cá trong hồ nước – hay tốt hơn, đường bay của một con chim trong bầu trời – biến mất không để lại dấu vết.
Cuối cùng, chúng ta đã đến trong một không gian nơi hiện diện thanh tịnh, rigpa, là thực tại duy nhất.

—o0o—

TIA SÉT ĐÁNH CỦA DUDJOM RINPOCHE
Dịch và bình giảng:THIỀN ĐỊNH: HỢP NHẤT NGÀY VÀ ĐÊM Dowman

Post: Thường An

SHARE: