PHẬT GIÁO KHÔNG BỘ PHÁI

SHARE:

Trong việc nghiên cứu Phật Pháp, chúng ta cần hiểu rằng có một cách thế đúng đắn để thực hiện điều đó. Khi bạn nghe giảng những giáo lý Phật giáo này, hãy đặt sang một bên mọi sự xao  lãng và tập trung tâm bạn với ý hướng nhất tâm  trên những ngôn từ và ý nghĩa của những giáo lý ấy.  Điều này cũng phải được thực hiện với  một thái độ nhớ tưởng tới tất cả những chúng sinh nào khác không thể nghe giáo lý Giác ngộ.Hãy đưa họ vào tâm bạn với những niệm tưởng  từ bi và với một sự xác quyết rằng, nhân danh họ, bạn sẽ học tập Phật Pháp một cách đúng đắn, sẽ nhớ tới Pháp, sẽ kinh nghiệm và chứng ngộ Pháp bằng những nỗ lực của riêng bạn.

Để  tịnh hóa những khái niệm tầm thường về bản tánh và về giá trị trân quý của Pháp trong tâm bạn, bạn cũng nên nghĩ tưởng rằng Thầy của bạn không khác gì bản thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi nếu chính Đấng Giác ngộ hiện diện ở đây trước mặt bạn, Ngài sẽ chẳng giảng điều gì khác ngoài Giáo Pháp này. Hãy quán tưởng vị Thầy của bạn trong thân  tướng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và tưởng tượng rằng vô số luồng ánh sáng vàng óng chiếu rọi từ thân ngài chạm vào tất cả chúng sinh. Những ánh sáng này tẩy trừ  những chướng ngại khỏi họ và bản thân bạn, để ban cho tất cả một kinh nghiệm về Pháp Giới và an lập tất cả trong sự hỉ lạc thanh tịnh của giải thoát. Khi những tia sáng này chạm vào tim bạn, hãy nghĩ tưởng rằng trong tâm bạn đang phát khởi một sự quán chiếu về  ý nghĩa chân thực của Pháp đang được thuyết giảng.

Hãy nghĩ tưởng rằng bản thân bạn không khác  gì Bồ Tát của Trí tuệ, Đức Manjushri (Văn Thù), là vị Bồ Tát, trên con đường hoàn thành hạnh nguyện của ngài, đã khám phá không chút mệt  mỏi tất cả những Giáo Pháp này vì lợi lạc của   những chúng sinh đau khổ. Hãy tưởng tượng rằng bạn đang thọ nhận Giáo Pháp này trong một cõi tịnh độ của chư Phật. Ở đó mọi vật không được xem như  là kiên cố và thực có, không theo cái cách mà chúng ta nhìn chúng qua sự mê lầm, nhưng mọi vật đều giống như những hình ảnh xuất hiện trong ảo ảnh hay một giấc mơ. Không bám chấp vào bất kỳ điều gì như thực có, hãy để cho tâm bạn an trụ trong trạng thái tánh Không. Trong những cách thế này, những nỗ lực của bạn để học tập ở đây và bây giờ sẽ gần giống sự truyền dạy Thánh Pháp khi việc ấy xảy ra trên mức độ thực tại tối hậu.

 

Tất cả  những cơ  hội như thế  này – lắng nghe,  học tập, và đem những giáo lý giác ngộ  được  Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy hòa nhập trong tâm thức của riêng ta– thì việc này thật là  cực kỳ hi hữu. Rất ít chúng sinh có được một cơ  hội như thế. Nhiều người khi sống cuộc đời của họ đã bị cô lập với Pháp. Họ không có lối vào con đường giác ngộ. Kết quả là họ đau khổ và bởi vì mê lầm, họ tạo thêm đau khổ cho bản thân và cho chúng sinh khác. Nỗi khổ này cứ  tiếp tục mãi; nó kéo dài vô tận và hiển lộ thật đa dạng.

 

Kinh điển có nói một cách chân thành rằng thậm chí danh hiệu của Đức Phật cũng hiếm có chúng sinh nào được nghe thấy. Suốt trong vô lượng kiếp sống, hầu hết chúng sinh không có ngay cả  nhiều cơ hội để giải thoát khỏi sự mê lầm và nỗi  khổ của họ. Do đó,mỗi giáo lý phải  được trân trọng như bảo vật hiếm có, và được quý mến ấp  ủ trong khi ta còn có cơ hội để nhận lãnh. Những chúng sinh may mắn như chúng ta, là những người giờ đây đang có một đời người với  những thuận lợi và sự nhàn nhã, trong một thời  đại mà các giáo lý  đang còn hiện diện, ta phải luôn giữ chánh niệm về hoàn cảnh của chúng ta.

Đời người thì cực kỳ ngắn ngủi. Nó trôi qua còn  nhanh hơn nước đổ xuống trong một dòng thác  núi. Cuộc đời chúng ta nhanh chóng trôi qua và cái chết nằm phía trước mỗi người trong chúng  ta. Trong thế giới này,sự xao lãng thật nhiều và  chướng ngại thì  đầy rẫy. Khó tìm ra  được sự quyết tâm thực hành Pháp. Khó đánh thức được  trong tâm ta quyết định đạt được Giác ngộ, khó  có thể chuyên tâm một cách đúng đắn vào quyết định này theo một phương cách thực sự mang  lại lợi lạc cho bản thân ta và người khác.

    

Dù thế  nào  đi nữa, chúng ta phải tìm ra sức  mạnh để đánh thức quyết định này trong bản  thân ta bằng sự quán chiếu sâu sắc về những yếu tố của một đời người và những yếu tố của  sự sống nói chung. Bởi chúng ta, giống như  chúng sinh khác, đã bị mang đi bởi dòng sông vĩ đại của những tập khí và nghiệp chướng (những  hành động phát khởi từ tham, sân và si). Vào lúc  chết, những khuynh hướng trong tâm ta sẽ quyết định tương lai ta: hoặc sẽ tìm lại được một  cơ hội như bây giờ để thọ nhận và thực hành  Pháp hoặc chúng ta sẽ vĩnh viễn mất cơ hội ấy, hoặc sẽ chịu đau khổ trong những cõi thấp giữa  những chúng sinh trong  địa ngục, những ngạ quỷ, và súc sinh, hoặc tự  thấy mình mất hết  Giáo Pháp giữa những vị trời và a tu la.

Định luật nghiệp báo xoay chuyển bánh xe vĩ đại của duyên sinh, là vòng tròn không thể lay  chuyển được của những tiến trình mê lầm trong tâm thức, và sẽ cuốn chúng ta ra khỏi cơ hội độc  nhất vô  nhị này để nắm bắt được Giáo Pháp cứu  sinh và nhờ đó mà đạt giải thoát. Nếu chúng ta vẫn nằm dưới sự chi phối của vòng quay mê  lầm này, tiến trình mười hai nidana, hay những  mối liên kết của nhân nguyên tương thuộc (duyên sinh) thì điều này sẽ khiến chúng ta phải lang thang vô ích từ một trạng thái hiện hữu này sang trạng thái khác. Nếu chúng ta không thoát khỏi bánh xe mê lầm bằng trí tuệ và bằng sự hiểu biết  đúng  đắn về Con  Đường tu,thì chắc chắn là ta sẽ tiếp tục trải nghiệm khổ đau. Nếu chúng ta không trốn thoát khỏi ba loại đau khổ này – đau khổ vì vô thường, đau khổ vì đau khổ (trong những cõi thấp), và đau khổ vì điều kiện – thì chúng sẽ tiếp tục quấy rầy ta.Đây là tương lai chờ đợi mỗi người trong chúngta, là những người không có khả  năng tạm ngừng nghỉ, quán chiếu, và thực hiện một nỗ lực chân thành để chứng ngộ Chân Pháp.

 

Trong tình huống như  của chúng ta, chúng ta phải làm gì? Đây là vấn đề mà Đấng Giác ngộ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đã cân nhắc trong nhiều năm và chính nhờ lòng đại bi của Ngài  đối với chúng sinh như chúng ta đã giúp chúng  ta khám phá được cho bản thân mình một phương cách [tu tập], và  nhờ thế, ta có thể giải  thoát mình khỏi cảnh ngộ  khốn khó. Đức Phật  đã giảng dạy một con đường giải thoát được đặt nền tảng trên sự thanh tịnh và đạo đức, một con đường của sự chứng nghiệm bao gồm việc nghiên cứu, quán chiếu và thiền định đúng đắn, một con đường có cùng cái đích là sự thành tựu hạnh phúc vĩ đại của giải thoát. Bằng phẩm tánh thiện xảo của  Đức Phật trong phương tiện và qua sự thấu suốt những loại chúng sinh với những khuynh hướng, tập khí khác nhau mà Đức Phật đã thuyết giảng những hệ thống thực hành khác nhau.

 

Trước tiên, Ngài  đã giảng hệ  thống Phật Giáo Tiểu thừa với ý niệm giải thoát cá nhân. Đối với  những người có năng lực tâm linh lớn lao hơn, Ngài giảng những giáo lý cao quý của Con  Đường Lớn của Phật Giáo Đại thừa với ý niệm  phổ độ. Trong hệ  thống Đại thừa, ta thọ  giới nguyện Bồ Tát để giải thoát tất cả các sinh loài  không khác gì bản thân ta. Kết quả là sự thành  tựu ba thân (Pháp Thân, báo Thân, Hóa Thân), hay thành tựu những phương diện khác nhau  của giác ngộ viên mãn. Tuy nhiên, con đường  thực hành Đại thừa này đòi hỏi ba a tăng kỳ kiếp để hoàn thiện những phẩm tính của Phật  Quả.
Với những người có lòng bi mẫn thật mãnh liệt đối với thế gian, là những người nhận ra rằng khó có thể chịu đựng nổi việc chúng sinh đã phải chờ đợi quá lâu trước khi ta có thể giải thoát họ khỏi nỗi đau khổ và an lập họ trong niềm hạnh phúc của sự giải thoát, thì  Đức Phật đã giảng dạy con đường nhanh chóng của Phật Giáo Kim Cương thừa. Nhờ những kỹ thuật thiền định siêu việt của hệ thống này, hành giả có thể đạt được Phật Quả trong một quãng thời gian rất ngắn. Nếu ta trì giữ những giới nguyện và thiền định  một cách mãnh liệt thì ta sẽ đạt được Giác ngộ viên mãn  ‐  Phật Quả  ‐  ngay trong  đời này.

 

Nhưng hệ thống này đòi hỏi ta phải có năng lực tinh thần siêu việt: phải cực kỳ thông tuệ và tinh  tấn. Tuy nhiên nếu ta chỉ có năng lực, sự thấu suốt và tinh tấn trung bình, thì ta có thể tin  tưởng là sẽ đạt được Giác ngộ hoặc trong trạng  thái bardo (trung  ấm) hoặc trong  đời sau. Cho dù ta có sự phát triển tâm linh rất ít ỏi và không  thể thực hành gì hết, ta vẫn được bảo đảm rằng  sẽ đạt được Phật Quả trong không quá mười sáu đời.
Vì thế, hệ  thống cuối cùng này do  Đức Phật giảng dạy thì cực kỳ hữu hiệu. Những Phật tử nào đã có thể chuyển tâm bởi lòng bi mẫn mãnh liệt đối với thế gian, là những người đã quyết định nhanh chóng giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ và an lập họ trong sự hạnh phúc, các bạn nên chú tâm vào hệ thống thực hành [Kim Cang thừa] này. Những phẩm tính được đòi hỏi ở đây là lòng dũng cảm, sự tinh tấn trong thực hành, và nhiệt tâm đối với đức hạnh.

 

Ba hệ thống Giáo Pháp được giảng dạy cho chúng sinh với những năng lực tâm linh khác  nhau đều mang lại những lợi lạc to lớn cho thế gian. Nhờ những hệ  thống giáo lý này, tất cả  chúng sinh có thể tìm ra con đường dẫn tới giải  thoát. Bất kỳ ai thọ nhận Giáo Pháp cũng nhận được sự lợi lạc bởi Giáo Pháp ấy được Đấng Bi  Mẫn giảng dạy để giúp chúng ta đạt  được  những mục đích của mình. Tất cả chúng ta đều tìm kiếm hạnh phúc và cố gắng tránh xa đau  khổ. Giáo Pháp chỉ cho ta con đường giải trừ  những nguyên nhân của đau khổ và đạt được sự chứng nghiệm hạnh phúc vô thượng.
Tuy thế, có một mối nguy hiểm trong việc nắm giữ Giáo Pháp một cách sai lạc. Nếu sự  nguy  hiểm này không tránh được và sự tiếp cận với Pháp của ta sai lầm thì ‘Pháp’ trở thành một nguyên nhân của tai họa thay vì lợi lạc. Đây không phải là mục đích của Các Đấng Giác ngộ mà cũng không phải của các Đạo sư đã giao phó Pháp cho chúng ta.

 

Hãy nhận ra và tránh xa mối nguy hiểm này: nó được gọi là ‘tư tưởng hẹp hòi’. Nó biểu hiện trong  những giáo đoàn trong hình thức của tính cách bộ phái: một thái độ phân biệt, một khuynh hướng hình  thành những sự vướng mắc mê lầm  đối với dòng  phái của riêng ta và bác bỏ những trường phái Phật Giáo khác như cái gì thấp kém. Tôi từng nhận thấy tư tưởng hẹp hòi này làm  giảm giá trị của Phật Giáo ngay trong xứ sở Tây Tạng của tôi và trong thời gian hai mươi năm  qua khi tôi sống ở Mỹ, tôi cũng nhìn thấy nó phát triển trong những trung tâm Giáo Pháp do  những vị thầy Tây Tạng và các đệ tử của họ  thành lập ở đây. Tôi rất lấy làm đau khổ khi nhận thấy tinh thần bộ phái  đã bám rễ giữa  những trung tâm Giáo Pháp. Chính bởi nghiệp  của tôi, với tư cách là một người  đại diện của Phật Giáo và là một người Tây Tạng, mà tôi có cơ hội và trách nhiệm để chống lại, khi được yêu cầu, ‘kẻ thù nội tại’ này.

 

Thông thường thì ở Tây Tạng những người ít phát triển tâm linh nhất thường ủng hộ một  trong bốn dòng phái lớn để  nuôi dưỡng tinh
thần bộ phái này. Những tu sĩ và đệ tử cư sĩ của một dòng phái thường từ chối không tham dự  những buổi lễ của các dòng phái khác. Những tu sĩ từ chối không nghiên cứu hay đọc kinh văn  của những phái khác chỉ vì chúng là những tác  phẩm của các Đạo sư thuộc dòng truyền thừa khác – bất luận kinh văn  ấy có thể tốt lành tới  đâu.
Dòng Nyingma vĩ đại – Dòng của những bậc cổ xưa (Cổ Phái) – có sự tự phụ đặc biệt của dòng  ấy. Một số môn đồ của dòng này tin rằng, là những thành viên của trường phái xuất hiện  sớm nhất, họ có những giáo lý sâu xa mà những  trường phái sau này của Phật giáo Tây Tạng không biết tới. Họ xác nhận rằng, bằng cách nào  đó giáo lý ‘Đại Viên Mãn’ của họ thì siêu việt  hơn nhận thức của ‘Mahamudra’ (Đại  Ấn) về thực tại tối hậu. Họ khẳng định điều này mặc dù  qua luận lý học và những giáo lý của chính Đức   Phật, thì chúng ta biết rằng không thể có bất kỳ khác biệt nào trong việc chứng ngộ thực tại tối hậu. Họ cũng khẳng định rằng giáo lý của họ là con đường siêu việt được ban tặng qua những giáo lý bí mật và những cấp  độ Giáo Pháp mà các trường phái khác không biết đến.

 

Phái Gelugpa, do Đức Tsongkhpa vĩ  đại sáng lập, cũng có những người ủng hộ kiêu ngạo của  dòng  ấy. Họ nghĩ họ là những người duy nhất bảo vệ của giáo lý  đã được đại học giả Atisha  truyền sang Tây Tạng, mặc dù những giáo lý  này vẫn được sử dụng và thực hành một cách phổ cập trong những phái khác. Họ tự phụ khi tuyên  bố họ đạt được một sự siêu việt trong thiện  hạnh. Họ có cảm tưởng rằng việc bảo vệ giới luật tu viện cùng tập quán hiến mình nhiều  năm để nghiên cứu trước khi chuyển sang việc  thực hành thiền định vào giai đoạn  cuối đã tạo nên một phương cách tiếp cận tối thượng  đối  với việc thực hành Kim Cương thừa. Họ tự coi mình là siêu việt trong thái độ hành xử lẫn trong nghiên cứu.
Một vài môn  đồ của phái Sakya cũng có sự tự phụ về công trình nghiên cứu. Họ tin rằng chỉ có phái của họ là hiểu biết và giữ gìn những giáo lý sâu xa được đưa từ Phật Giáo Ấn Độ vào Tây Tạng. Thông thường thì những học giả Sakya này xem thường những hành giả của các dòng khác, cho rằng những Phật tử Tây Tạng khác là những hành giả dốt nát, sự thực hành của họ không được nâng đỡ bởi sự hiểu biết đúng đắn về chân nghĩa của Giáo Pháp.

 

Một số người ủng hộ phái Kagyu có sự tự phụ riêng của họ. Họ khẳng định rằng dòng truyền  thừa của những Đạo sư của họ thì siêu việt tới nỗi bản thân họ được coi là siêu phàm – như  [chính họ là] những người kế thừa của các ngài  Tilopa, Naropa, Marpa, Milarepa và Dagpo (Gampopa). Những Đạo sư này  đúng là rất vĩ  đại nhưng không nhất thiết những người khẳng  định mình là người ủng hộ truyền thống của họ cũng vĩ đại như thế. Sự vĩ đại của những Đạo sư  này phụ thuộc vào sự  chứng ngộ của các ngài.  Sự trung thành tuyệt đối với những Đạo sư này không thể làm cho các hành giả Kagyu trở nên  siêu phàm.
Tất cả những thái độ này rất thường được tìm thấy trong những tu sĩ và cư sĩ Phật Giáo Tây Tạng. Chúng có thể là những thái độ phổ biến nhưng không là những thái độ Phật Giáo đúng đắn. Ngài Jamgon Kongtrul Rinpoche,  Đạo sư Kagyu vĩ đại và là người đề xướng phong trào Ris‐med (2) (Rimé)  đã nói rằng, một bậc hiền minh sẽ có niềm tin nơi giáo lý của tất cả các dòng phái, sẽ yêu quý Giáo Pháp tìm được trong mỗi dòng phái đó giống như  một bà mẹ thương yêu tất cả những  đứa con của bà. Tâm một bậc hiền minh như thế bao la như bầu trời, có nhiều khả năng để đón nhận nhiều giáo lý, nhiều sự nội quán, nhiều sự thiền định. Nhưng tâm của một kẻ bộ phái ngu dốt thì giới hạn, chật chội, và hẹp hòi như  một cái bình chặt cứng [không thể  nào buông ra]. Một tâm hồn như  thế rất khó phát triển trong Pháp, do bởi những giới hạn tự áp đặt cho chính mình. Sự khác biệt giữa Phật tử hiền minh và Phật tử bộ phái thì giống như sự khác biệt giữa sự bao la của không gian và sự chật hẹp của một cái bình.  Đây là những lời dạy của Kongtrul Rinpoche.

 

Nhà hiền triết vĩ  đại của trường phái Sakya là ngài Sapan  đã viết trong tác phẩm ‘Ba Giới  nguyện’ của ngài rằng khi còn trẻ, ngài  đã
nghiên cứu rộng rãi kinh văn của tất cả những dòng phái của Tây Tạng dưới chân những Đạo sư khác nhau. Ngài đã thực hiện những nỗ lực đặc biệt  để  học tập, thông suốt, và chứng ngộ những giáo thuyết của những trường phái khác nhau này và không bao giờ xem thường bất kỳ phái nào. Ngài yêu quý tất cả  những trường phái ấy.

 

Long‐chen Rab‐jampa, học giả vĩ đại của trường phái Nyingma, cũng thực hành tương tự. Ngài  thọ nhận sự truyền Pháp từ những Đạo sư  của tất cả bốn dòng phái không chút phân biệt.

Từ tiểu sử của Đức Tsongkhapa vĩ đại, chúng ta  biết  được rằng ngài cũng nghiên cứu rộng rãi dưới chân những Đạo sư của mọi dòng phái.
Ngài Khyentse Wangpo vĩ  đại, bậc Thầy xuất sắc của Ris‐med, của phong trào không bộ phái, đã viết trong tự truyện của ngài rằng khi ngài còn trẻ, ngài  đã nghiên cứu học hỏi dưới chân  một trăm năm mươi Đạo sư của tất cả bốn dòng  phái của Phật Giáo Tây Tạng.
Ngài Jamgon Kongtrul Rinpoche, một  Đạo sư Ris‐med khác,  đã  đưa tất cả  những giáo lý cốt tủy của mỗi một trong bốn trường phái, cũng như  những tiểu phái vào kiệt tác vĩ  đại ‘Kho Tàng Giáo Lý’ của ngài.

Tất cả những Đạo sư vĩ đại này, những tâm hồn vĩ đại nhất mà lịch sử Phật Giáo Tây Tạng từng sản sinh ra, đều đồng ý rằng một thái độ bộ phái không có chỗ đứng trong Giáo Pháp thanh tịnh. Bản thân Đức Phật đã giảng dạy trong Luật tạng và trong những Kinh tạng khác nhau rằng những Phật tử vướng mắc vào trường phái Phật Giáo của riêng họ và khinh miệt những giáo lý cùng Đạo sư và đệ tử của những dòng phái khác, thì  chính họ  sẽ tạo nên mối tai họa to lớn cho bản thân họ và cho cộng đồng Phật Giáo nói chung.

 

Trước hết, người coi thường trường phái Phật Giáo khác là coi thường Đức Phật. Họ làm suy yếu sự  truyền bá Giáo Pháp. Một thái độ như thế sẽ tạo nguy hại cho Giáo Pháp và người ấy sẽ  bị cô lập  với sự truyền dạy của Pháp. Bởi vì  những giới  nguyện quy y của ta  được  đặt căn bản trên sự tin cậy vào Đấng Giác ngộ, Giáo Pháp của Ngài, và Thánh Chúng (Tăng Đoàn Thiêng liêng). Nếu
ta bác bỏ  Giáo Pháp, ta sẽ  làm gãy bể  giới nguyện quy y của mình và bằng cách ấy, ta tách  rời khỏi Pháp. Bằng cách bác bỏ Giáo Pháp này – cánh cửa duy nhất dẫn tới hạnh phúc của chúng sinh và của bản thân – ta tích tập vô vàn tội lỗi.

 

Do  đó,  Đức Phật  đã giảng dạy rằng ta cũng không nên khinh miệt Pháp của những người  phi‐Phật tử bởi đó là suối nguồn hạnh phúc và lợi lạc của họ. Ta không nên xem thường hay  nuôi dưỡng sự  khinh miệt  đối với những giáo  thuyết của các tín đồ Ấn giáo, Cơ Đốc giáo, hay những tôn giáo phi‐Phật giáo khác bởi thái  độ  dính mắc vào khía cạnh của riêng ta trong khi  bác bỏ khả năng của sự dị biệt chỉ có hại cho sự nghiệp tâm linh của ta.
Những người nuôi dưỡng sự  khinh miệt dù được nói ra hay không  được bộc lộ  đối với  những giáo lý và dòng truyền thừa của những
trường phái khác nhau này thì cũng sẽ  phải gánh chịu tội lỗi to lớn và những hậu quả khủng  khiếp. Thái độ tệ hại này không cần thiết giống như chính hậu quả  tai hại của nó.
Những người học Pháp, dựa vào niềm tin nơi giáo lý của  Đức Phật, hãy từ bỏ  sự phóng dật, mê lầm, và những trói buộc của thế gian; và hãy hướng mọi nỗ  lực vào việc tịnh hóa tâm thức thoát khỏi những chướng ngại, những ngăn che, và những tội lỗi. Họ nên hiến mình cho những nỗ  lực trong việc tích tập những  đức hạnh và những chứng ngộ dẫn tới Phật Quả, và  hướng về  những lợi lạc to lớn cho bản thân họ  và  những người khác.  Đây là phận sự  chân chính mà mỗi Phật tử cần có ở trước mặt họ. Công việc của ta không phải là ganh  đua hay cạnh tranh  với những hành giả Phật tử khác, bởi điều ấy chỉ   tạo nên những chướng ngại cho họ và cho bản thân ta.  Đây không phải là trách nhiệm  đặt trước chúng ta khi ta thọ  những giới nguyện quy y và giới nguyện Bồ Tát.

 

Niềm tin là nền tảng của Pháp. Chính niềm tin nơi tính chất xác thực và chân lý của Phật Pháp  và sự tin tưởng mãnh liệt vào hiệu quả của con đường dẫn tới Giác ngộ, là những gì đã thúc đẩy  chúng ta thọ nhận những cam kết của các giới  nguyện tu sĩ, những giới nguyện sa di, hay những giới luật của cư sĩ tại gia. Trong tất cả  những giới nguyện này, niềm tin  nơi tính chất xác thực của Tam bảo là nền tảng của những giới nguyện và công phu tu hành mà chúng ta  đã cam kết. Nếu ta bác bỏ  Pháp của những Phật tử khác thì ta phá hủy sự  cam kết của ta với Pháp. Ta phá hủy chỗ  đứng của ta trong Pháp và tạo nên một sự chướng ngại cho sự tiếp nhận của Pháp. Ta phá hủy nền tảng của sự nghiệp tâm linh của riêng ta. Vì những lý do này, hãy luôn luôn gìn giữ trong tâm giá trị  vĩ  đại của Pháp. Hãy loại bỏ  trong bản thân bạn và trong những người khác bất kỳ thái  độ  nào thúc  đẩy sự  giảm thiểu niềm tin. Chúng ta luôn luôn nỗ lực để có niềm tin trong sạch – niềm tin thông tuệ được đặt nền tảng trên sự thấu hiểu rằng chúng ta phải yêu quý Tam Bảo như đây là  nền tảng để ta hy vọng đạt được Phật Quả.

 

Những người chấp nhận thái độ hẹp hòi bộ phái  này thường không biết tới những giáo lý mà  những dòng phái khác có. Thay vào  đó họ  đặt thái  độ  bộ  phái của họ  lên trên dòng truyền  thừa. Họ chối bỏ những vị thầy như là chối bỏ  những giáo lý của những trường phái khác. Những dòng truyền của mỗi một trong ba hệ  thống giới luật, là những gì tạo nên cấu trúc của   Pháp để rèn luyện mọi Phật tử, tất cả  được bắt nguồn trực tiếp từ  chính  Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Những giới nguyện Biệt Giải thoát khởi đầu từ  Đức Phật và  được truyền liên tiếp qua những nhà hiền triết Ấn Độ vĩ đại tới những bậc nắm giữ  dòng phái Tây Tạng. Những dòng truyền ấy đã tiếp nối trong một sự liên tục thanh  tịnh và không đứt đoạn cho tới thời hiện đại của chúng ta.

 

Những giáo thuyết sâu xa và những giới luật của năm giới nguyện Bồ Tát thì cũng thế, đều do  Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy và  được truyền sang những bậc hiền triết Phật Giáo Ấn  Độ  và Tây Tạng. Từ  Đạo sư  Nagarjuna (Long Thọ) chúng ta có ‘truyền thống Văn Thù’ của những giới nguyện Bồ Tát và từ Đạo Sư Asanga  (Vô Trước) và những người kế  thừa của ngài  chúng ta có ‘truyền thống Di Lặc.’ Tương tự như thế, trong Kim Cương thừa, tất cả  những Mật  điển  được  Đức Phật thuyết giảng  trong thân tướng Kim Cương thừa của Ngài – thân tướng của  Đức Phật Vajradhara (Kim Cương Trì). Những Tantra (Mật  điển) này và  những giáo huấn trong  ấy  được trao truyền từ Đức Vajradhara tới những  Đạo sư  khác nhau của Phật Giáo Tây Tạng. Cũng chính những Mật điển và giáo huấn  đó  đã  được truyền dạy một cách thanh tịnh, không đứt đoạn, xuống tới thời hiện  đại. Những Tantra (Mật  điển) này và  những giáo huấn trong ấy thuộc về toàn thể bốn dòng phái. Mặc dù dòng truyền thừa của những Đạo sư  có thể thay đổi từ dòng này sang dòng khác, nhưng trong sự thanh tịnh và liên tục của sự  truyền dạy của những giáo huấn  ấy thì không có lỗi lầm nào.

 

Ba phân loại giới nguyện này (Biệt Giải Thoát, Bồ  Tát và Kim Cương Thừa) cung cấp một  khung sườn hay cấu trúc khiến cho mỗi người trong chúng ta  đều có thể  tiến bộ  trên con  đường dẫn tới giải thoát. Như thế, không có lỗi  lầm trong bất kỳ  trường phái nào, hay trong những giáo thuyết hoặc dòng truyền thừa của  những giáo lý  ấy. Một người thông tuệ  có thể  tìm được lý lẽ bào chữa cho tính cách bộ phái ở nơi đâu trong tất cả những trường phái này?
Chắc chắn là việc thật tự nhiên và có thể  chấp nhận được khi chúng ta có thể cảm thấy một sự  ưa thích  đặc biệt trường phái này hay trường phái khác, hay bị  cuốn hút vào một hệ  thống thực hành  đặc biệt nào  đó, hay vào một nhóm đặc biệt những thiền giả  hay vào một vị  thầy đặc biệt chẳng hạn. Nhưng khi ta làm điều đó, chúng ta cũng phải quả quyết nhìn vào tâm ta và loại trừ  khỏi tâm bất kỳ  cảm xúc nào liên quan  đến sự  xem thường hay có ác cảm với những trường phái Phật Giáo khác. Chúng ta không nên xa lánh những giáo lý và những vị thầy của những trường phái Phật Giáo khác. Bất kỳ  khi nào chúng ta hành  động chỉ  vì sự dính mắc vào dòng phái của riêng ta hay từ một ước muốn [cho rằng ta] không dễ chấp nhận những giáo lý hay những vị thầy của những dòng phái khác, thì chúng ta đang đắm mình trong thái độ hết sức tai hại này của tinh thần chia rẽ bộ phái.

 

Một người mà sự nghiệp tâm linh bị ô uế bởi tư tưởng hẹp hòi và sự dính mắc vào những lợi lạc  của riêng mình trong khi chối bỏ những lợi lạc của người khác, người ấy sẽ chẳng bao giờ vượt  qua  được những chướng ngại  để  đạt  được trí  tuệ hay nội quán sâu sắc. Tinh thần bộ  phái biến Giáo Pháp thanh tịnh  thành thuốc  độc mà qua  đó, ta tích tập tội lỗi  khủng khiếp. Trong  đời này ta sẽ  bị  ngăn trở trong những nỗ lực về Pháp của ta. Vào lúc chết, ta sẽ rơi vào  địa ngục nhanh như một mũi tên được bắn ra từ một cây cung. Đây là những hậu quả của việc trải một đời người trong việc chối bỏ  những nỗ  lực tâm linh của người khác dựa trên những nền tảng tư tưởng hẹp hòi như thế.

 

Do đó hãy tỉnh thức, đừng đắm mình trong thái độ  này, nó mang lại cho bạn rất nhiều tai họa  mà bạn không muốn tìm kiếm.  Đừng tạo nên những chướng ngại cho [việc thực hành] Pháp  của riêng bạn. Thay vào  đó, hãy nỗ  lực  để  có   niềm tin thanh tịnh và hãy duy trì niềm tin đó trong tất cả những biểu lộ khác nhau của Tam  Bảo, cho dù Tam Bảo  được hiện thân trong  trường phái này hay trường phái khác của Phật Giáo Tây Tạng. Hãy chịu khó nuôi dưỡng  những giới nguyện quy y và niềm tin thanh tịnh  của bạn, và bằng cách ấy, hãy thực sự lớn mạnh trong Đạo Pháp.

 

Nguyên tác của Deshung Rinpoche (Sakya).  
Bản dịch Anh ngữ của Jared Rhoton, California.
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên.    

www.quietmountain.org/links/teachings/nonsect.htm
Chú thích:
Deshung Rinpoche III (1906‐1987) là một Lạt ma cao
cấp của trường phái Sakya. Ngài tới Seattle
(Washington, Hoa Kỳ) năm 1960 và giảng dạy tại Đại
học Washington. Tái sinh của đời thứ IV của ngài tên
là Sonam Wangdu sinh ngày 12/11/1991 tại Seattle, có
pháp danh là Ngawang Kunga Tegchen Chokyi Nyima,
hiện ở Tu viện Tharlam (Kathmandu, Nepal).

 

SHARE:

Để lại một bình luận