TÁNH GIÁC VÀ NHỮNG BIỂU LỘ CỦA NÓ

SHARE:

Không có sự đổi dời nào trong ba thời . Vì bản tánh tinh túy của hiện thể là bất biến nên không thể biến đổi thành cái khác . Vì không thể tổn hại hay không bị bất cứ cái gì làm tổn thương nên gọi là bất diệt . Vì không hủy diệt bởi chính nó hay do cái gì khác nên gọi là chân thực . Vì an trụ như là nền tảng chung của tất cả Sinh tử và Niết bàn nên không thể hư hỏng . Vì những yếu tố tốt và xấu không làm nhiễm ô nên bền vững và thoát ngoài mọi chao đảo nên hoàn toàn vô ngại .

 

Vào dịp khác , trong kinh nghiệm thiền định về sự sáng tỏ toàn triệt . Tôi gặp Manjushri Vadisimha ( Văn Thù Sư Lợi – Sư Tử của Ngữ ) và hỏi ngài như sau :

“ Hỡi bậc Thầy, bậc che chở thế giới . Con đã đến quyết định căn bản này đúng như là : Mọi hiện tượng hình tướng của thế giới như đồ chứa đựng . Và những vật được chứa không gì khác hơn là những xuất hiện hình tướng vốn tự biểu lộ . Nhưng xin ngài chỉ cho con những tên riêng và những cõi tịnh của tất cả chư Phật . Có thể hay không thể được xem như những đối tượng độc lập và sự độc lập đó như thế nào ” . Theo sự cầu xin , vị thầy ban cho sự trả lời sau đây :

“ Hãy nghe , hỡi người đại căn .  Những phẩm tính hiện diện tự nhiên quý báu là : Ánh sáng tĩnh lặng bên trong của phương diện nền tảng của Pháp thân và Phật tánh . Như căn cứ những cõi tịnh của chư Phật . Những bổn tôn nam nữ và vô số cung điện , tự biểu hiện toàn thiện như những thuộc tính tự nhiên nền tảng của hiện thể . Đây là nguyên lý của trí huệ siêu việt ( Bát nhã ba la mật ) .

 

Sự trình bày của chúng như : Những sự vật có thể khác với nền tảng nguyên lý của phương diện thiện xảo . Sự toàn thiện của những phẩm tính trong bản thân nền tảng của hiện thể là chân lý tối hậu . Sự diễn giải những phẩm tính ấy trở thành hiện hữu như những sự vật trong thế giới ở cấp độ của chân lý tương đối .

 

Lại nữa , nghĩa rốt ráo về phô diễn của những thân và trí huệ nguyên sơ là : Sự hiện diện tự nhiên của bản thân nền tảng của hiện thể . Nghĩa tạm thời bao gồm : Những giải thích về các cõi tịnh của chư Phật . Danh hiệu của những Bổn tôn nam và nữ . . . khác với nền  tảng . Có nghĩa : Như những thực thể có bản chất với các tướng nhất định .

 

Sau đây là giải thích về thực tại tối hậu ở cấp độ tương đối . Phù hợp với những phương thức của kinh nghiệm sinh tử . Hãy xem xét cách các bậc chiến thắng bao gồm trong năm thân .Trong thật tánh tối thượng , mọi hiện tượng của những hình tướng xuất hiện có thể có của Sinh tử và Niết bàn đều : Hiện diện vốn có như thuộc tính tự nhiên . Không thi thiết trong tánh Không tối thượng . Nền tảng hiện thể như : Hư không căn bản được gọi là “ Pháp ” ( Dharma ) . Do vô số tính cách và mức độ căn cơ . Tất nhiên sẽ có vô số lối vào con đường tâm linh . Vô số kinh nghiệm thiền định và vô số mục tiêu hiện hữu vốn có như những thuộc tính tự nhiên . Được gọi là “ Thân ” ( Kaya ) . Sự phô diễn hiện tại tự phát của những thân và trí huệ nguyên sơ vốn toàn thiện như là : Những thuộc tính tự nhiên được thọ hưởng . Được gọi là “ Báo thân ” .

 

Với ý định hữu thức phóng ra . Tất cả những thân lưu xuất vẫn không lìa khỏi bản tánh .  Tuy nhiên , lưu xuất hóa thân của những bậc thầy giác ngộ . Những nhà nghệ thuật . Những vị thầy tái sanh và vật vô tri được biểu lộ . Không gì khác hơn nền tảng của bản thân hiện thể . Bốn phương thức lưu xuất biểu lộ liên hệ duyên sanh . Đồng bộ với thức quan niệm ra một cái “ Tôi ”như thau nước có thể phản chiếu , và những phẩm tính hư không căn bản của Phật tánh như những tinh tú trên trời .

 

Thực ra , thế giới không nằm ngoài sự phô diễn của ba thân .  Thuật ngữ “ Pháp thân ” ám chỉ phương diện bản tánh tinh túy như là tánh Không . “ Báo thân ” là phương diện bản tánh vốn sẵn hiện diện tự nhiên . “ Hóa thân ” là phương diện biểu lộ riêng biệt của những hiện tượng hình tướng bề ngoài .

 

Hơn nữa , thuật ngữ “ Tự tánh thân ” hàm ý chính nền tảng hiện thể là bản tánh tinh túy của tất cả Sinh tử và Niết bàn . Và tất cả mọi sự đều đồng một vị trong cùng bản tánh của tinh túy đó . Thuật  ngữ “ Thân ” hàm ý gom tụ mọi phương diện của trí huệ nguyên sơ và những phẩm tính tốt đẹp .

 

Không có sự đổi dời nào trong ba thời . Vì bản tánh tinh túy của hiện thể là bất biến nên không thể biến đổi thành cái khác . Vì không thể tổn hại hay không bị bất cứ cái gì làm tổn thương nên gọi là bất diệt . Vì không hủy diệt bởi chính nó hay do cái gì khác nên gọi là chân thực . Vì an trụ như là nền tảng chung của tất cả Sinh tử và Niết bàn nên không thể hư hỏng . Vì những yếu tố tốt và xấu không làm nhiễm ô nên bền vững và thoát ngoài mọi chao đảo nên hoàn toàn vô ngại . Vì xuyên thấu bất kỳ cái gì kể cả những che chướng vi tế cái biết ( Sở tri chướng ) và không có đối tượng hay bất cứ duyên nào vượt thắng nên gọi là vô địch .

 

Như vậy ,
Bản tánh Kim cương bất hoại có bốn sự bảo đảm :

1-
Trừ người có đạo tâm với nghiệp thích hợp và phước đức ,
Không chúng sanh nào chứng ngộ được .

2-
Khi được chứng ngộ và đưa vào thực hành ,
Không thể không có sự tin cậy kiên cố .

3-
Khi đã có sự tin cậy,
Không thể nào không có giải thoát .

4-
Tất cả những ai đã tìm ra sự giải thoát ;
Không thể nào không giác ngộ Phật quả .

 

Sự hiện diện vốn sẵn của năm thân như : Những thuộc tính tự nhiên bản thân của nền tảng hiện thể là chân lý tối hậu . Sự diễn giải tách biệt với nền tảng ở cấp độ của cái gọi là : “ Chân lý tương đối ” và “ Con đường của phương tiện thiện xảo ” . Sau đây là căn cứ diễn tả những Bổn tôn theo những gia đình hay bộ . Tương đương với những loại chúng sinh bám chấp . Bản thân nền tảng hiện thể thanh tịnh đến độ . Những sự méo mó của những khuôn khổ do thói quen .Được xóa sạch trong hư không căn bản .

 

Thuật ngữ “ Xóa sạch ” ( Sang) được sử dụng ,
Vì trí huệ bổn nguyên và những phẩm tính tốt đẹp thường hiện bày .

Thuật ngữ “ Hiện bày ” ( Gyay ) được dùng ;
Do có Phật bộ ( Sang-gyay ) .

Vì hiện thể chúng sinh ;
Có bảy thuộc tính Kim cương bất khả hoại ;
Nên có Kim Cương bộ .

Vì tác dụng như nguồn của tất cả các thân ;
Và các phương diện của trí huệ nguyên sơ ,
Nên có Bảo Sanh bộ .

Vì không bị nhiễm ô bởi bất kỳ tỳ vết khuyết điểm nào ,
Nên có Liên Hoa bộ .
Vì những hoạt động giác ngộ được thành tựu trọn vẹn ,
Nên có Nghiệp bộ .

Thuật ngữ “ bộ ” hay “ gia đình ” ;
Diễn tả những nhóm họp tương ứng theo kiểu mẫu nói trên .

Sau đây là giải thích về năm cõi tịnh .
Tương ứng với sự bám trụ vào lãnh thổ của chúng sinh :

Từ sự dẫy đặc những phẩm tính tốt ;
Hiện diện tự nhiên trong nền tảng hiện thể như là :
Hư không căn bản . Nên có cõi Phô Bày Dày Đặc ( Tugpo Kodpa ) .

Vì nền tảng của hiện thể được phú bẩm niềm vui tối thượng ;
Niềm vui này không do bất kỳ đối vật , điều kiện hay tác nhân nào mang tới .
Nên có cõi Niềm Vui Được Biểu Lộ ( Ngonpar Gawa ) .

Vì nó phú bẩm vinh quang đầy dẫy của trí huệ nguyên sơ ;
Và những phẩm tính tốt ;
Nên có cõi Vinh Quang Phú Bẩm ( Paldang Danpa ) .

Vì được phú bẩm trí huệ nguyên sơ ;
Của phúc lạc bất tận và tánh Không ;
Nên có cõi Cực Lạc ( Dewachan ) .

Vì có sự trọn vẹn rốt ráo toàn thiện
Của mọi hoạt động tịnh hóa và tự do ;
Nên có cõi Hoạt động Trọn Vẹn ;
Và Rốt Ráo Toàn Thiện ( Layrab Dzogpa ) .

Thuật ngữ “ Trường ” ( Zhing ) chỉ hư không căn bản ;
Thuật ngữ “ Cõi ” ( Kham ) không gì khác hơn là :
” Sự cấu thành nền tảng ”  của hiện thể .

Vì những phẩm tính tốt của nền tảng của hiện thể không thể đo lường ;
Nên thuật ngữ  “ Vô lượng ” được dùng .

Vì hoàn toàn lấp đầy toàn bộ Sinh tử và Niết bàn ,
Nên thuật ngữ “ lâu dài ” ( Khang ) được dung .

Khi ánh sáng vốn sẵn bên trong nền tảng hiện thể chúng snh ,
Tỏa khắp như hư không căn bản hiển hiện rõ ràng .
Bởi trí huệ tối thượng toàn khắp và siêu việt ,
Nên có Vairocana ( Tỳ Lô Giá Na ) .

“ Sự biểu Lộ Rành Mạch ” ( Nampa Nangdzad) ;
Của tất cả những trí huệ nguyên sơ ;
Và mọi phẩm tính tốt của nền tảng hiện thể .
Có nghĩa của Phật tánh như là :
“ Sự cấu thành nền tảng ” của chúng sinh .

Vì được phú bẩm bảy thuộc tính Kim cương bất hoại ;
Thoát khỏi dao động trong ba thời .
Nên có Akshobhya ( A súc Bệ )  ;
Và “ Kim Cương Không Lay Chuyển ” ( Mikyod Dorje ) .

Vì là cội nguồn thuộc mọi yếu tố của con đường và quả ,
Được phú bẩm đầy dẫy phẩm tính tốt tuyệt hảo .
Nên có Ratnasambhava ;
“ Nguồn Của Sự Quý Báu ” ( Rinchhen Jungdan ) .

Amitabha , ‘Sáng Tỏ Vô Cùng’ ( Nangwa T’hayay ) ,
Ám chỉ phương diện vô cùng nền tảng của hiện thể chúng sinh .
Biểu lộ như những hiện tượng hình tướng .
Vì tất cả những đề mục của thực tại hiện hữu theo cách tự hữu ,
Nên có Amogasiddhi “ Thành Tựu Của Nghĩa ” (  Donyod Drubpa ) .

Tánh Không Kim cương tối hậu là hư không ;
Trong đó mọi hiện tượng Sinh tử và Niết bàn .
Biểu lộ trong phương diện đến và đi  ( Dro ),
Nên có Vajradakini .

Ratnadakini là phương diện tính tự hữu ,
Của tất cả trí huệ nguyên sơ và những phẩm tính tốt ;
Tương tự một kho ngọc quý .
Padmadakini biểu thị ;
Phương diện thoát khỏi mọi bám luyến .
Karmadakini chỉ ,
Mọi hoạt động thân hiện diện tự nhiên ;
Và của trí huệ nguyên sơ là tự hữu không do cố ý nỗ lực .

Vì những méo mó do
Những phiền não ( Phiền não chướng ) và Vô minh ,
Đối với cái ta có thể biết được ( Sở tri chướng ) .
Bị xóa sạch trong hư không căn bản và trí huệ nguyên sơ ;
Cùng những phẩm tính tốt hiển lộ ;
Nên thuật ngữ “ Phật ” được dùng .

Và vì trong cõi hư không bao la ( Kha ) của tánh Không tối thượng ,
Mọi hiện tượng hình tướng của Sinh tử và Niết bàn .
Biểu lộ như những phương diện đến và đi ( Dro ) ,
Thuật ngữ “ Dakini ” ( Khadro )  – “ Người đi trên không trung ” ;
Hay “ Người nhảy múa trong không trung ” được dùng .

 

Phương diện nền tảng của Pháp thân , Phật tánh trở nên hiển lộ rõ ràng như :Nguyên lý thấm nhập khắp tất cả Sinh tử và Niết bàn . Đây là phương diện nền tảng của trí huệ vốn sẵn như là tự do tối thượng đối với những giới hạn . Thế nên , tất cả thực hành Sadhana liên quan tới thực tại tối hậu bao gồm như sau :

Đạt đến sự làm chủ bẩm sinh nhờ tin chắc sâu xa vào phương diện trí huệ vốn sẵn hay tánh giác vốn sẵn như là : Bản tánh những nguyên lý tâm linh cao nhất đều hợp nhất , và nhận lấy bản tánh nền tảng của thực tại làm sự quy y tối hậu và vô thượng .

 

Trải qua vô số đời từ vô thủy , phạm vi trí năng của con bị hạn cuộc ngặt nghèo do quan niệm “ Ngã ” là thật và bám chấp những đối tượng giác quan . Bây giờ con phải đạt đến quyết định rằng : Sinh tử và Niết bàn là ảo ảnh của trí huệ vốn sẵn và duy nhất . Thế nên , phạm vi  tâm thức bình thường của con sẽ lớn lên . Đây là sự thiêng liêng nhất trong mọi phương cách phát Bồ đề Tâm .

 

Tâm thức bình thường của những quan niệm nhị nguyên : Đối tượng và chủ thể trở thành con quỷ lớn nhất của đời sống bị quy định khiến con người mãi lang thang trong vòng sinh tử . Trí huệ phân biệt siêu việt xua đuổi nó vào tánh Không . Không sơ hữu bất cứ  vật gì ; sẽ làm hiển lộ trí huệ siêu việt thấu hiểu vô ngã và vô tự tánh . Tạo thành vòng che chở của Bồ đề tâm không bị đánh bại hay bị hủy diệt .

 

Làm trút xuống sự ban phước tối thượng của trí huệ hay tánh giác nguyên sơ vốn sẵn ; vào trong cõi tối tăm của sự không nhận biết trí huệ hay tánh giác vốn sẵn . Tạo thành giai đoạn thực sự của việc cầu ban phước . Với sự chứng ngộ : Những hiện tượng hình tướng sinh khởi là sự trang hoàng của trí huệ vốn sẵn . Như thế ,sự phô bày tự xảy ra của những kinh nghiệm giác quan tạo thành hành động cúng dường .

 

Sự chuyển di từ “ Địa ” của tất cả kinh nghiệm bình thường vào Pháp thân là :Phương diện “ Địa ” ban đầu của Phật quả . Trí huệ siêu việt biết bản tánh nền tảng này đúng như nó là . Đồng thời tri giác những sự vật trong sự đa thù của chúng . Như vậy sẽ bao gồm cái thức biết tất cả và giác ngộ toàn vẹn .

 

Hai phương diện của trí huệ siêu việt trở nên rõ ràng là : Sự hợp nhất những bí mật của tất cả các bậc chiến thắng và con cháu thừa kế của các ngài . Những cấp đầu tiên chứng ngộ con đường phương tiện thiện xảo là : Chúng hội các vị giữ gìn giáo pháp . Từ sự làm chủ địa thứ tám và các địa cao hơn của chứng ngộ là :Chúng hội của những bồ tát ; và Phật quả thật sự .Và là : Chư Phật và những cõi tịnh độ . Đó là con đường phương tiện thiện xảo giải thích : “ Địa ”của mọi kinh nghiệm bình thường .

 

Sự không nhận biết tánh giác vốn sẵn là : Maheshavara . Mọi khuôn khổ tư tưởng khởi lên từ là : Những Hộ pháp của những giáo lý và tám loại Thiên long . Với phương diện địa ban đầu của Pháp thân trở nên rõ ràng . Những phương diện của trí huệ nguyên sơ tối thượng và tự hữu sinh khởi là : Năng lực được xếp thành phạm trù . Như thế được làm thành con đường phương tiện . Nên thực hành Sadhana thực sự sẽ làm rõ ràng : Trạng thái giác ngộ tối hậu của Phật quả . Tất cả những Sadhana và Mandala được xếp vào và thành tựu trong đó .

 

Giai đoạn triệu thỉnh là : Làm rõ ràng bản tánh nền tảng . Có nghĩa : Làm chuyển di mọi hiện tượng ba cõi sinh tử đến sự phô diễn của thật tánh tối thượng và độc nhất . Thế nên , phải trụ vững trong địa một cách trực tiếp . Thoát khỏi sự chuyển dời và biến đổi trong ba thời là : Cầu xin sự ở lại ( thỉnh Phật trụ thế ) .

 

Hành vi đảnh lễ khi gặp “ sự  thấy ” mặt đối mặt là : Hành vi hoàn thành cảm thức sửng sốt khi gặp khuôn mặt thật sự của chính con . Vì phương diện địa ban đầu của Pháp thân là : Cái thấy hùng vĩ nhất của những cái thấy .

 

Sự phô diễn của những hiện tượng trong thật tánh thực tại là :
Hành vi tối thượng của cúng dường .

Sự tán thán tối hậu là :
Cảm thức của ngạc nhiên thán phục ;
Và tin chắc khi con thấy đúng như nó là :
Bản tánh nền tảng của Sinh tử và Nết bàn là Đại Toàn Thiện

Sự phô bày của Thân Giác Ngộ là :
Vô số hiện tượng hình tướng biểu lộ riêng biệt rõ ràng .

Sự phô diễn của Ngữ Giác Ngộ là :
Sự hoàn thiện và thành tựu trọn vẹn tự nhiên của chúng .

Sự phô diễn của Tâm Giác Ngộ là :
Bản thân hư không căn bản như tánh thanh tịnh bổn nguyên ,
Không bị giới hạn của những tạo tác ý niệm .

 

Đó là những đặc tính của tánh giác hay trí huệ vốn sẵn như Đại Toàn Thiện . Những phẩm tính tốt tự phát khởi nhờ thấu suốt : Sự phô diễn của các thân và tánh giác nguyên sơ . Không do tìm kiếm mà vốn đã hiện diện những phẩm tính thành tựu làm chủ đối với bốn loại hoạt động giác ngộ . Tương tự , hãy hiểu :Bốn quán đảnh đồng thời toàn thiện và trọn vẹn trong tự hữu của sắc tướng , ngữ , tâm trong những phẩm tính và những hoạt động giác ngộ .

 

Hiểu và chứng ngộ trạng thái hoàn thiện toàn vẹn đúng như nó là . . . Chính là Đại Toàn Thiện .Trước đây con đã lang thang trong vòng luân hồi do thiếu cái hiểu như vậy . Cho dù xưa nay vốn đã toàn thiện . Nhưng bị che tối do không nhận biết tánh giác vốn sẵn . Giống như nước vốn tự do trôi chảy . Nhưng bị đóng thành băng hay như vàng và ngọc đã bị bỏ qua vì không nhận biết . Nên không dứt được cảnh đói nghèo .

 

Rốt ráo , tánh giác hay trí huệ nguyên sơ và những phẩm tính của nền tảng của hiện thể, Phật tánh là toàn thiện và viên mãn như năng lực nguyên sơ của nền tảng . Những diễn giải về điều này là những Mandala riêng biệt của những yếu tố nâng đỡ . Được nâng đỡ là : Những phương tiện thiện xảo đưa những người chưa được điều phục . Cho những người gán sự vật có tính thường còn . Và con đường tương đối của nỗ lực đi đến hư không căn bản vốn không có nỗ lực . Thế nên , được trang bị bởi ba yếu tố then chốt :

1-
Quang minh .

2-
Thanh tịnh .

3-
Tánh Không .

Từ đó người ta được đưa đến hư không căn bản của mục đích tối thượng ”

Nói xong ngài biến mất .

 

NHỮNG LỐI VÀO THỰC TẠI TỐI HẬU 

Dudjom Rinpoche – Việt dịch: Nguyễn An Cư

NXB: Thiện Tri Thức 2004

SHARE:

Để lại một bình luận