SHARE:
Nếu các người tu hành
Chẳng khởi ra phân biệt
Không lâu đắc tam muội
Lực, thông, và tự tại.
Người tu hành chẳng nên
Vọng chấp theo vi trần
Thời, thắng tánh, tác giả
Duyên sanh ra thế gian.
Thế (gian) từ tự phân biệt
Thảy thảy tập khí sanh
Người tu hành nên quán
Các hữu như mộng huyễn.
Xa lìa kiến thường hằng
Phỉ báng và kiến lập
Thân, tài sản, chỗ ở
Chẳng phân biệt ba cõi.
Chẳng tư tưởng ăn uống
Chánh niệm đoan thân trú
Mỗi mỗi cung kính lễ
Chư Phật và Bồ tát.
Khéo hiểu nghĩa kinh luật
Pháp lý thú chân thật
Năm pháp, hai vô ngã
Cũng tư duy tự tâm.
Nội chứng tánh pháp tịnh
Các địa đến Phật địa
Hành giả tu tập pháp
Ngồi hoa sen, (được) quán đảnh.
Trầm luân trong các nẻo
Chán lìa với các hữu
Đến chỗ yên vắng vẻ
Tu tập các quán hạnh.
Có vật không nhân sanh
Vọng nói lìa đoạn thường
Cũng nói lìa hữu vô
Vọng chấp là trung đạo.
Vọng kế luận vô nhân
Vô nhân là đoạn kiến
Vì chẳng rõ ngoại vật
Mà hoại diệt trung đạo.
Sợ sa vào đoạn kiến
Chẳng xả bỏ chấp pháp
Vì kiến lập, phỉ báng
Vọng nói là trung đạo.
Bởi biết rõ duy tâm
Bỏ lìa các ngoại pháp
Cũng lìa vọng phân biệt
Hành vậy hợp trung đạo.
“Người tu hành nên quán, các hữu như mộng huyễn” thì “không lâu đắc tam muội”, trụ duy tâm. Để đi đến đó hành giả phải huy động những gì mình có thể làm trong toàn bộ Phật pháp. Giới thân: “chẳng tư tưởng ăn uống, chánh niệm đoan thân trú, đến chỗ yên vắng vẻ, tu tập các quán hạnh”. Lòng sùng kính: “Mỗi mỗi cung kính lễ, chư Phật và Bồ tát”. Từ bỏ: “Chán lìa với các hữu”. Tư duy, thiền định, quán sát” “Khéo hiểu nghĩa kinh luật, pháp lý thú chân thật, năm pháp hai vô ngã, cũng tư duy tự tâm”.
Để đạt đến biết rõ duy tâm, hành giả phải được hỗ trợ bởi 37 phẩm trợ đạo, càng có nhiều, càng hoàn thiện chúng càng tốt. Tất cả mọi thực hành đều đặt nền trên nền tảng duy tâm như huyễn, vì duy tâm như huyễn là Trung đạo, không sa vào kiến chấp hữu vô.
Như huyễn là duy tâm, duy tâm là như huyễn.
Duy tâm không có cảnh
Không cảnh tâm chẳng sanh
Ta cùng chư Như Lai
Nói đó là trung đạo.
Hoặc sanh hoặc chẳng sanh
Tự tâm vô tự tánh
Hữu vô thảy đều Không
Chẳng nên phân biệt hai.
Chẳng thể khởi phân biệt
Người ngu cho giải thoát
Tâm không giác trí sanh
Sao đoạn được hai chấp?
Bởi giác rõ tự tâm
Đoạn được hai sở chấp
Hiểu rõ nên đoạn được
Chẳng phải không (thể) phân biệt.
Biết rõ chỉ tâm hiện
Phân biệt tức chẳng khởi
Vì phân biệt không khởi
Tâm Chân Như chuyển y (khỏi bất tịnh).
Nếu thấy pháp sanh khởi
Lìa các lỗi ngoại đạo
Là Niết bàn người trí
Chẳng phải là diệt hoại.
Ta cùng chư Phật nói
Giác vậy tức thành Phật
Nếu còn phân biệt khác
Đó là luận ngoại đạo.
Chẳng sanh mà hiện sanh
Chẳng diệt mà hiện diệt
Khắp cả các ức cõi
Đốn hiện như trăng (trong) nước.
Một thân là nhiều thân
Như lửa cháy, mưa rơi
Tùy cơ trong tâm hiện
Thế nên nói duy tâm.
Tâm cũng là duy tâm
Phi tâm cũng tâm khởi
Thảy thảy các sắc tướng
Thông đạt đều duy tâm.
Duy tâm thì không có cảnh, và không có cảnh thì tâm chẳng sanh. Duy tâm là tâm vô niệm, là tánh Không. Vô niệm không phải là không có niệm nào, niệm sanh hay chẳng sanh đều vô tự tánh, đều là tánh Không.
Người ngu cho rằng giải thoát là tâm không có cái gì sanh cả, không biết cái gì cả, “tâm không trí giác sanh”, đó là chấp không. Người trí thì thấy có pháp sanh nhưng như huyễn, nên thấy sanh mà vẫn giải thoát, chứ không phải là đoạn diệt: “Nếu thấy pháp sanh khởi, lìa các lỗi ngoại đạo, là Niết bàn người trí, chẳng phải là hoại diệt”. Ở đây một lần nữa, chúng ta thấy trung đạo là Như huyễn tam muội.
Sanh hay chẳng sanh, “có hay không thảy đều Không”. Duy tâm là tánh Không vượt khỏi tĩnh và động, chẳng sanh và sanh, không và có. Duy tâm là tánh Không, là tự do tối hậu và cùng khắp, vì hiện mà chẳng hiện.
Khi biết mọi cái thấy, nghe, nghĩ, biết đều chỉ là tâm hiện, bấy giờ phân biệt không khởi, tâm Chân Như ra khỏi thức phân biệt hư vọng, tất cả chỉ là một tâm Chân Như. Trong đó chẳng sanh mà hiện sanh, chẳng diệt mà hiện diệt, sanh diệt và vô sanh vô diệt hoàn toàn là một. Đây là ý sanh thân rốt ráo, như trăng khắp hiện trong nước, như lửa cháy thì cháy khắp cả, như mưa thì rơi ở khắp cả. “Một thân làm nhiều thân”: một vật đặt trong một căn phòng làm bằng rất nhiều tấm kiếng (tất cả duy tâm) thì vật ấy trở thành vật trong tất cả các tấm kiếng. Bóng hiện trong tất cả gương, nhưng tất cả bóng đều như huyễn.
“Thảy thảy các sắc tướng, thông đạt đều duy tâm”. Sáu căn, sáu trần, sáu thức, mười tám giới… tất cả đều duy tâm. Khởi tất cả mà vẫn giải thoát, bởi vì không có gì khởi cả: “Phi tâm cũng tâm khởi”.
Chư Phật và Thanh Văn
Duyên Giác thảy hình tướng
Và thảy thảy các sắc
Đều nói là duy tâm.
Từ nơi vô sắc giới
Cho đến trong địa ngục
Hiện khắp vì chúng sanh
Đều là duy tâm làm.
Các tam muội như huyễn
Cùng với ý sanh thân
Mười địa cùng tự tại
Đều do chuyển y đắc.
Người ngu bị tướng chuyển
Theo thấy nghe hay biết
Tự phân biệt điên đảo
Hý luận làm cho động.
Tất cả Không, vô sanh
Ta thật chẳng niết bàn
Hóa Phật ở các cõi
Nói tam thừa nhất thừa.
Phật có ba mươi sáu
Mỗi cái có mười thứ
Tùy tâm thức chúng sanh
Mà hiện các cõi nước.
Pháp Phật ở thế gian
Giống như tánh vọng kế
Tuy thấy có thảy thảy
Mà thật vô sở hữu.
Pháp Phật là chân Phật
Ngoài ra đều Hóa Phật
Tùy chủng tử chúng sanh
Thấy Phật hiện ra thân.
Vì mê lầm các tướng
Mà khởi ra phân biệt
Phân biệt không khác chân
Tướng chẳng phải phân biệt.
Tự tánh cùng thọ dụng
Hóa thân và hiện hóa
Phật đức ba mươi sáu
Đều do tự tánh thành.
Tất cả chư Phật, Duyên Giác, Thanh Văn, Bồ tát và các chúng sanh và tất cả các cõi đều là duy tâm hiện, ở trong duy tâm và là duy tâm. Càng chứng duy tâm chừng nào thì càng ở bậc cao chừng ấy và có mọi diệu dụng chừng ấy. Tất cả đồng một duy tâm. Ngay cả chúng sanh cũng sống, tạo nghiệp, phân biệt hư vọng cũng trong và trên duy tâm vì không có gì ngoài và khác với duy tâm: “phân biệt không khác chân, tướng chẳng phải phân biệt”.
Do ngoại huân tập (khí) chủng (tử)
Mà sanh ra phân biệt
Không giữ cái chân thật
Mà giữ chỗ vọng chấp.
Mê lầm nơi nội tâm
Và duyên ở ngoại cảnh
Chỉ do hai khởi này
Không còn duyên thứ ba.
Mê lầm y trong ngoài
Mà đã có sanh khởi
Sáu, mười hai, mười tám
Nên ta nói là tâm.
Biết chỉ có căn cảnh
Tức lìa khỏi ngã chấp
Ngộ tâm không cảnh giới
Tức lìa khỏi pháp chấp.
Do y nơi bản thức
Mà có các thức sanh
Do y vào nội xứ
Có tợ ảnh ngoài hiện.
Vô trí luôn phân biệt
Hữu vi và vô vi
Đều tất chẳng thể đắc
Như mộng, sao, vòng tóc.
Như thành Càn thát bà
Như huyễn, lửa trong nước
Chẳng có mà thấy có
Pháp duyên khởi cũng vậy.
Ta y ba thứ tâm
Giả nói căn, cảnh, ngã
Mà tâm, ý, thức kia
Tự tánh không chỗ có.
Tâm, ý và các thức
Vô ngã và hai thứ
Năm pháp, ba tự tánh
Là cảnh giới chư Phật.
Nhân tập khí là một
Mà thành nơi ba tướng
Như lấy một màu sắc
Vẽ tường thấy đủ thứ.
Năm pháp, hai vô ngã
Tự tánh, tâm, ý, thức
Ở trong chủng tánh Phật
Đều trọn chẳng thể đắc.
Xa lìa tâm, ý, thức
Cũng lìa khỏi năm pháp
Lại lìa ba tự tánh
Đây là chủng tánh Phật.
Nếu nghiệp thân, ngữ, ý
Chẳng tu pháp trắng sạch
Tịnh chủng tánh Như Lai
Bèn lìa khỏi hiện hạnh.
Do tập khí chủng tử trong tâm mà có phân biệt tâm và cảnh ở ngoài tâm. Từ hai cái khởi này mà có ta người, thế giới, chúng sanh… tất cả sanh tử. Cho nên tu là lìa bỏ ngã chấp và pháp chấp.
“Biết chỉ có căn cảnh, tức lìa khỏi ngã chấp”: căn cảnh duy tâm mà hiện, như huyễn, không có ngã ở đâu cả. “Ngộ tâm không cảnh giới, tức là khỏi pháp chấp”: quán thấy “hữu vi và vô vi, đều trọn chẳng thể đắc”, là chứng đắc được vô pháp.
Vô ngã và vô pháp, vì tất cả duy tâm tạo nên như huyễn, đó là Đại thừa.
Thần thông, lực, tự tại
Tam muội tịnh trang nghiêm
Thảy thảy ý sanh thân
Là tịnh chủng tánh Phật.
Nội tự chứng vô cấu
Xa lìa nhân của tướng
Địa tám và Phật địa
Tánh Như Lai viên thành.
Viễn hành và Thiện huệ
Pháp vân và Phật địa
Đều là Phật chủng tánh
Ngoài ra nhị thừa nhiếp.
Tâm Như Lai tự tại
Nhưng vì các người ngu
Vì tướng tâm sai khác
Nói ra bảy thứ địa.
Địa thứ bảy chẳng khởi
Lỗi lầm thân, ngữ, ý
Sở y địa thứ tám
Như qua sông trong mộng
Địa tám và địa năm
Hiểu rõ công xảo minh
Các Phật tử hay làm
Vua trong các cõi hữu.
Người trí chẳng phân biệt
Hoặc sanh hoặc chẳng sanh
Không cùng với chẳng không
Tự tánh, vô tự tánh
Chỉ duy là tâm lượng
Mà thật chẳng thể đắc.
Vì các Nhị thừa nói
Đây thật, đây hư vọng
Chẳng vì các Phật tử
Nên chẳng nên phân biệt.
Hữu, phi hữu đều không
Cũng không tướng sát na
Pháp thật, tợ cũng không
Duy tâm, bất khả đắc.
Có pháp là tục đế
Đệ nhất nghĩa vô tánh
Mê lầm nơi vô tánh
Đó tức là thế tục.
Tất cả pháp đều Không
Ta vì các phàm ngu
Tùy tục giả thi thiết
Nhưng đó không chân thật.
Các Phật pháp, năm pháp, hai vô ngã, ba tự tánh, tâm, ý, thức, ở trong chủng tánh Phật, tức là ở trong Phật tánh, đều trọn chẳng thể đắc. Trong chủng tánh Phật có tất cả phàm thánh, tất cả pháp nhưng tất cả đều bất khả đắc, như huyễn. Thấy tất cả chỉ duy là tâm lượng, nên đều bất khả đắc, như huyễn, đó là ở trong “hiện hạnh” của chủng tánh Phật. Đây là thật nghĩa của duy tâm: “Duy tâm bất khả đắc”, “đệ nhất nghĩa vô tánh”.
Thấy được duy tâm như huyễn và an trụ trong đó là bước vào các địa, cho đến địa thứ tám, thì sanh tử luân hồi và nỗ lực để giải thoát khỏi nó chỉ là giấc mộng giờ đây tỉnh giấc. Từ đó tiến lên Thiện Huệ địa, Pháp Vân địa cho đến Phật địa.
Pháp do ngôn ngữ khởi
Nghĩa bèn có hoạt động
Quán thấy chỗ ngôn sanh
Tức trọn chẳng thể đắc.
Như lìa tường không tranh
Lìa thể chất không ảnh
Tạng thức nếu thanh tịnh
Các sóng thức chẳng sanh.
Y pháp thân có báo (thân)
Từ báo khởi hóa thân
Đó là căn bản Phật
Còn đều hóa Phật hiện.
Chẳng nên vọng phân biệt
Không cùng với chẳng không
Vọng kế nơi hữu vô
Lời, nghĩa bất khả đắc.
Phàm ngu vọng phân biệt
Đức, thật, trần tụ sắc
Mỗi mỗi trần đều không
Thế nên không cảnh giới.
Chúng sanh thấy ngoại tướng
Đều do tự tâm hiện
Chỗ thấy đã chẳng có
Nên không các ngoại cảnh.
Như voi lún trong bùn
Không thể nào di động
Thanh Văn trụ trong định
Chìm đắm cũng như vậy.
Nếu thấy các thế gian
Là tập khí làm nhân
Lìa hữu vô bốn câu
Pháp vô ngã giải thoát.
Có tánh là vọng kế
Duyên khởi là y tha
Chân Như là viên thành
Ta thường nói trong kinh.
Tâm, ý cùng với thức
Phân biệt cùng biểu thị
Bản thức tạo ba cõi
Đều là tâm khác danh.
Thọ mạng, hơi ấm, thức
A lại da mạng căn
Ý cùng với ý thức
Đều phân biệt, khác danh.
Tâm hay giữ cho thân
Ý thẩm xét suy lường
Ý thức cùng năm thức
Biết cảnh giới tự tâm.
Nếu thật có ngã thể
Khác uẩn hay trong uẩn
Nơi ấy tìm ngã thể
Rốt ráo chẳng thể đắc.
Niệm niệm quán thế gian
Đều là tự tâm hiện
Với phiền não ngủ ngầm
Lìa khổ được giải thoát.
Thế gian thấy có hoạt động thì ấy là sự hoạt động của danh tướng. Thiếu danh hay ngôn ngữ phân biệt bèn không có hoạt động, bèn bất động. Tạng thức nếu thanh tịnh, các sóng thức chẳng khởi, tâm cảnh đều bất động.
Thấy cảnh giới, thế giới bên ngoài đều là do tập khí của tự tâm mà hiện. Thấy tự tâm gồm tám thức là duyên sanh lẫn nhau, nên vô tự tánh, không có ngã thể. Tâm và cảnh chỉ là duyên sanh của vọng kế tự tánh và duyên khởi tự tánh hay y tha khởi tự tánh, tâm cảnh đều duyên sanh vô tự tánh nên như huyễn. Khi thấy tâm cảnh là vô tự tánh, như huyễn tức thời thấy viên thành thật hay Chân Như, nền tảng của mợi chân vọng, mọi sanh tử và Niết bàn.
Bấy giờ tám thức, căn cảnh, thân tâm, thế giới, chúng sanh chỉ là Một Tâm. Tất cả những gì chúng ta kinh nghiệm đều chỉ là tâm, “bản thức tạo ba cõi, đều là tâm khác danh”, “đều phân biệt, khác danh”.
Thanh Văn là tận trí
Duyên Giác tịch tĩnh trí
Trí huệ của Như Lai
Sanh khởi vô cùng tận.
Ngoài thật không có đắc
Duy tự tâm mà hiện
Người ngu không giác biết
Vọng phân biệt hữu vi.
Không biết ngoại cảnh giới
Thảy thảy đều tự tâm
Người ngu dùng nhân, dụ
Bốn câu mà thành lập.
Người trí thì rõ biết
Cảnh giới tự tâm hiện
Không dùng tông, nhân, dụ
Bốn câu mà thành lập.
Phân biệt chỗ phân biệt
Đó là tướng vọng kế
Y chỉ nơi vọng kế
Mà khởi thêm phân biệt.
Xoay vần y lần nhau
Đều nhân một tập khí
Cả hai đều là khách
Chẳng (phải) tâm chúng sanh khởi.
Sống ở trong ba cõi
Phân biệt tâm, tâm sở
Chỗ khởi tự cảnh giới
Là tự tánh vọng kế.
Bóng hình cùng chủng tử
Hợp thành mười hai xứ
Sở y, sở duyên hợp
Nói có sự được tạo.
Giống như bóng trong gương
Mắt lòa thấy vòng tóc
Tập khí lại như vậy
Phàm phu khởi vọng kiến.
Nơi cảnh (do) tự phân biệt
Mà khởi thêm phân biệt
Như ngoại đạo phân biệt
Ngoại cảnh chẳng thể đắc.
Như ngu không biết dây
Lầm cho là con rắn
Chẳng rõ tự tâm hiện
Vọng phân biệt ngoại cảnh.
Tự thể dây như vậy
Tánh một khác đều lìa
Chỉ tự tâm điên đảo
Vọng khởi phân biệt dây.
Khi vọng kế phân biệt
Mà tánh nó chẳng có
Làm sao thấy không có
Mà khởi lên phân biệt?
Tánh sắc vô sở hữu
Các vật thảy như vậy
Chỉ do phân biệt sanh
Chỗ thấy rốt không có.
Trí Thanh Văn, Duyên Giác là trí diệt tận định, tịch tĩnh bất động. Trí huệ Phật vượt lên sự bất động này mà sanh khởi vô cùng tận, sanh mà vô sanh, sanh khởi như huyễn. Sanh khởi vô cùng tận vì đã về đến nguồn của năng lực như huyễn.
Gương chỉ là gương sáng, tất cả chỉ là gương sáng, đây là viên thành thật. Trên đó khởi lên phân biệt vi tế vô thức thì có y tha khởi hay duyên khởi. Sự phân biệt bắt đầu từ đó, có không gian có thời gian, có chuyển động có tịch lặng… Trên sự phân biệt y tha này lại khởi thêm phân biệt để thành danh và tướng, đây là vọng kế.
Biết vọng kế và y tha là như huyễn như mộng, duy tâm mà khởi hiện bèn ở ngay trong viên thành thật. Viên thành thật chính là duy tâm, vọng kế và y tha có khởi hay không khởi cũng chỉ là viên thành thật, chỉ là duy tâm.
‘Vô thủy trong hữu vi
Mê lầm khởi phân biệt
Pháp nào khiến mê lầm
Xin Phật nói cho con.’
Các pháp vô tự tánh
Chỉ duy tâm có hiện
Chẳng rõ biết tự tâm
Thế nên sanh phân biệt.
Như chỗ ngu phân biệt
Vọng kế thật chẳng có
Có cái khác với kia
Mà ngu không biết được.
Cái các bậc thánh có
Người ngu chẳng thể biết
Nếu thánh đồng với phàm
Thánh cũng có hư vọng.
Vì tâm thánh thanh tịnh
Thế nên không mê lầm
Phàm ngu tâm chẳng tịnh
Nên có vọng phân biệt.
Như mẹ nói con nhỏ:
Con chớ nên khóc lóc
Hư không có quả rớt
Đủ thứ tha hồ lấy.
Ta vì chúng sanh nói
Các thứ quả vọng kế
Khiến họ ham vui rồi
Pháp thật lìa hữu vô.
Trước, các pháp không có
Các duyên chẳng hòa hợp
Vốn chẳng sanh mà sanh
Tự tánh vô sở hữu.
Pháp chưa sanh chẳng sanh
Lìa duyên chẳng thể đắc.
Quán thật các duyên khởi
Chẳng hữu cũng chẳng vô
Chẳng hữu vô bốn câu
Bậc trí chẳng phân biệt.
Các người ngu ngoại đạo
Vọng nói tánh một khác
Chẳng biết các duyên khởi
Thế gian như huyễn mộng.
Đại thừa ta vô thượng
Siêu vượt khỏi danh ngôn
Nghĩa nó rất rõ ràng
Người ngu chẳng hay biết.
“Các pháp vô tự tánh, chỉ duy tâm có hiện, chẳng rõ biết tự tâm, thế nên sanh phân biệt”: phải rõ biết tự tâm, nền tảng của mọi cái có, cái không có, của sanh tử và Niết bàn huyễn mộng. Biết rõ tự tâm mới không tiếp tục sanh thêm phân biệt, sanh thêm nghiệp sanh tử.
Các pháp chưa từng có trước đây, các pháp chưa sanh chẳng bao giờ sẽ sanh, các pháp hiện nay cũng không có vì không sanh. Duyên khởi cao cấp của kinh này là thật tướng của duyên khởi là vô sanh, do đó thế gian như huyễn mộng, như hoa giữa hư không. Trong vô minh, người phàm có bao nhiêu thứ sanh là có bấy nhiêu sanh tử trói buộc. Trong giác ngộ, bậc thánh có bao nhiêu thứ sanh là có bấy nhiêu trí huệ giải thoát.
Thanh Văn và ngoại đạo
Chỗ nói đều nhỏ hẹp
Khiến nghĩa đều biến đổi
Đều do vọng kế khởi.
Các tướng và tự thể
Hình trạng cùng với tên
Bốn thứ này duyên nhau
Mà khởi các phân biệt.
Chấp Phạm, tự tại, làm
Một thân cùng nhiều thân
Cùng nhật nguyệt vận hành
Họ chẳng là con ta.
Đầy đủ nơi thánh kiến
Thông đạt pháp như thật
Khéo léo chuyển các tưởng
Đến bờ kia của thức.
Dùng ấn giải thoát này
Vĩnh viễn lìa hữu vô
Và lìa khỏi đến, đi
Là con trong pháp ta.
(Cho rằng) Nếu sắc thức chuyển diệt
Các nghiệp bị hoại mất
Đó là không sanh tử
Cũng không thường, vô thường.
Nhưng khi chúng chuyển diệt
Tuy bỏ lìa sắc xứ
Nghiệp ở A lại da
Lìa lỗi lầm hữu vô.
Sắc thức tuy chuyển diệt
Mà nghiệp không hoại mất
Khiến ở trong các cõi
Sắc thức lại tương tục.
Nếu các chúng sanh kia
Nghiệp đã khởi hoại mất
Tức không có sanh tử
Cũng không có Niết bàn.
Nếu nghiệp cùng sắc thức
Cùng thời mà diệt hoại
Trong sanh tử có sanh
Thì sắc, nghiệp không khác.
Sắc, tâm và phân biệt
Chẳng khác, chẳng không khác
Người ngu nói diệt hoại
Mà thật lìa hữu vô.
Duyên khởi cùng vọng kế
Chuyển vần không tướng riêng
Như sắc cùng vô thường
Chuyển vần sanh cũng vậy.
Đã lìa khác, chẳng khác
Vọng kế chẳng thể biết
Như sắc tánh vô thường
Làm sao nói có, không?
Khéo thông đạt vọng kế
Duyên khởi ắt chẳng sanh
Do thật thấy duyên khởi
Vọng kế tức Chân Như.
Nghiệp không ở nơi sắc hay các thức bên ngoài, mà ở nơi A lại da dưới dạng chủng tử tập khí. Sắc, nghiệp, thức và sanh tử thật ra như hoa đốm vọng kế cho nên nói sắc khác nghiệp hay không khác nghiệp, nghiệp có diệt hoại hay không diệt hoại, sanh tử duyên khởi ra Niết bàn hay Niết bàn duyên khởi cho sanh tử… đều là những lời nói hý luận trong mộng. Duyên khởi cùng vọng kế cái nào sanh ra cái nào hay cùng lúc sanh ra rồi cùng lúc diệt mất, sắc và vô thường là khác hay chẳng khác, cho đến hữu vô, sanh chẳng sanh, một khác… cũng chỉ là lời nói trong mộng.
Nếu thông đạt vọng kế chỉ là huyễn mộng thì duyên khởi ắt chẳng sanh. Do thật thấy tánh của duyên khởi là vô sanh bèn chứng ngay vọng kế tức Chân Như. Tất cả là tâm Chân Như, không có vọng kế nào, duyên khởi nào chẳng phải là tâm Chân Như. “Không có vô minh cũng không có vô minh tận…”
Nếu diệt tánh vọng kế
Tức là hoại pháp nhãn
Bèn ở trong pháp ta
Kiến lập và phỉ báng.
Các loại người như thế
Sẽ hủy báng chánh pháp
Họ đều dùng phi pháp
Hoại diệt pháp nhãn ta.
Người trí không sống cùng
Việc tỳ kheo cũng bỏ
Vì hoại diệt vọng kế
Nên kiến lập, phỉ báng.
Nếu tỳ kheo phân biệt
Khởi ra kiến hữu vô
Kia như huyễn, vòng tóc
Mộng, nắng và thành Càn
Họ chẳng học Phật pháp
Chẳng nên cùng ở chung
Vì tự sa hai biên
Cũng làm hư người khác.
Nếu có người tu hành
Quán sát tánh vọng kế
Tịch tĩnh lìa hữu vô
Chấp nhận cùng ở chung.
Như thế gian có chỗ
Có vàng, ngọc ma ni
Chúng tuy không tạo tác
Mà chúng sanh thọ dùng.
Tánh nghiệp cũng như vậy
Xa lìa thảy thảy tánh
Nghiệp được thấy là không
Mà sanh ra các nẻo.
Như các thánh rõ biết
Pháp đều không chỗ có
Người ngu phân biệt rằng
Pháp vọng kế chẳng Không.
Nếu người ngu phân biệt
Pháp kia không chỗ có
Đã không có mọi pháp
Chúng sanh không tạp nhiễm.
Vì có pháp tạp nhiễm
Vô minh, ái trói buộc
Hay khởi thân sanh tử
Các căn bèn đầy đủ.
Nếu nói ngu phân biệt
Pháp ấy đều là không
Thì không các căn sanh
Kia chẳng chánh tu hành.
Nếu không có pháp ấy
Để làm nhân sanh tử
Người ngu chẳng đợi tu
Tự nhiên mà giải thoát.
Nếu không có pháp ấy
Phàm thánh có gì khác?
Cũng không có thánh nhân
Tu hành ba giải thoát.
Các uẩn cùng nhân (người), pháp
Tự, cọng tướng, vô tướng
Các duyên cùng các căn
Ta vì Thanh Văn nói.
Duy tâm và phi nhân
Các địa cùng tự tại
Nội chứng Chân Như tịnh
Ta vì Phật tử nói.
Đời vị lai sẽ có
Thân mặc áo cà sa
Vọng nói về hữu vô
Hủy hoại chánh pháp ta.
Vọng kế là Chân Như. Đúng hơn, vọng kế là Chân Như được nhìn sai. Thế nên nếu diệt tánh vọng kế tức là bác bỏ luôn nền tảng của tánh vọng kế là Chân Như.
Tánh vọng kế thì chẳng phải hữu, chẳng phải vô, nên là như huyễn. Thấy được tánh vọng kế là “tịch tĩnh, lìa hữu vô” như huyễn tức là thấy Chân Như.
Tánh nghiệp cũng vậy, cũng là tánh vọng kế, tánh Chân Như. Bậc thánh thì thấy tánh nghiệp là tánh Chân Như, tướng nghiệp là như huyễn. Người ngu thì không thấy tánh nghiệp mà chỉ thấy tướng hư vọng, thấy “pháp vọng kế chẳng Không”, sống và làm việc trong thế giới của tướng hư vọng nên tạo nghiệp, như tằm nhả tơ để tự trói buộc.
Có những người ngu vẫn sống trong các tướng nhưng cho càn rằng các tướng là không, chứ không thấy thật tánh của các tướng là không, chấp càn như thế là rơi vào đoạn kiến, hư vô, không có gì cả. Nếu không có “nhân sanh tử” thì lấy đâu có sanh tử, lấy đâu có người trói buộc người giải thoát, cần gì con đường giải thoát của Phật pháp? Chẳng biết rằng tánh nghiệp là Không mà sanh ra các nẻo theo nghiệp quả, theo cái thấy hư vọng của mình. Như hư không không có hoa đốm mà mỗi người tự thấy hoa đốm tự vui tự khổ với chúng.
Các bậc Thanh Văn thì thật chứng tánh của các tướng là Không và chấp một bề tánh Không như vậy bèn chứng nhập tánh Không mà giải thoát. Các vị không biết tánh vọng kế là Chân Như nên loại bỏ, hủy diệt tánh vọng kế, nghĩa là hủy diệt sanh tử, trong khi tánh sanh tử vọng kế là Chân Như. Hữu dư và vô dư Niết bàn của các vị nằm về phía không có sanh tử.
Các Bồ tát thì biết và tu tánh vọng kế, tánh sanh tử là Chân Như. Thật tướng của sanh tử vọng kế là Chân Như, nên Niết bàn của Bồ tát rộng hơn, có cả sanh tử đã được chuyển y, tức Niết bàn vô trụ xứ.
Pháp duyên khởi vô tánh
Là chỗ hành các thánh
Tánh vọng kế không vật
Người vọng kế phân biệt.
Vị lai người ngu si
Các ngoại đạo Kiệt ma
Nói giảng luận vô nhân
Ác kiến hoại thế gian.
Vọng nói các thế gian
Từ nơi vi trần sanh
Nhưng trần kia không nhân
Chín thứ vật thật, thường
Từ thật mà thành thật
Từ đức mà sanh đức
Chân pháp tánh thì khác
Hủy báng nói không có.
Nếu vốn không mà sanh
Thế gian có bắt đầu
Sanh tử không tiền tế
Đó là lời ta nói.
Tất cả vật ba cõi
Vốn không mà có sanh
Thì chó, ngựa sanh sừng
Đáng lẽ cũng chẳng nghi.
Nhãn sắc thức vốn không
Mà nay nếu có sanh
Thì áo, mũ, đệm thảy
Đáng lẽ từ bùn sanh.
Như trong vãi không đệm
Tại sao trong mỗi duyên
Đều chẳng sanh ra đệm?
Nếu mạng và thân kia
Vốn không có mà sanh
Ở trước ta đã nói
Đều là luận ngoại đạo.
Trước ta nói tông kia
Để ngăn che ý ấy
Đã ngăn che ý ấy
Rồi sau nói tông mình.
Lo các chúng đệ tử
Mê bám tông hữu vô
Thế nên ta vì họ
Trước nói luận ngoại đạo.
Ác kiến Ca tỳ la
Vì các đệ tử nói
Thắng tánh sanh thế gian
Bị các đức (tính) chuyển biến.
Vì các duyên không có
Chẳng đã sanh đang sanh
Các duyên đã chẳng duyên
Chẳng sanh chẳng không sanh.
Tông ta lìa hữu vô
Cũng lìa các nhân duyên
Sanh diệt và sở tướng
Tất cả đều xa lìa.
Thế gian như huyễn mộng
Nhân duyên đều vô tánh
Thường làm quán như vậy
Phân biệt không còn khởi.
Nếu hay quán các hữu
Như sóng nắng, vòng tóc
Cũng như thành Tầm hương
Thường lìa khỏi hữu vô
Nhân duyên đều lìa bỏ
Tâm trở lại thanh tịnh.
Nếu nói không ngoại cảnh
Mà lại chỉ có tâm
Không cảnh tức không tâm
Làm sao thành duy tâm?
Vì có cảnh sở duyên
Tâm chúng sanh được khởi
Không nhân tâm chẳng sanh
Làm sao thành duy tâm?
Chân Như và duy tâm
Là chỗ hành các thánh.
Đây nói có chẳng có
Họ chẳng hiểu pháp ta
Do năng thủ sở thủ
Mà tâm được sanh khởi.
Chỉ cần câu kệ “pháp duyên khởi vô tánh, là chỗ hành các thánh, tánh vọng kế không vật, người vọng kế phân biệt” mà tư duy thiền quán lâu ngày bèn thật chứng được duy tâm tánh Không, cũng tức là Chân Như viên thành thật tánh.
“Nếu vốn không mà sanh, thế gian có bắt đầu”, đây là cái quán tạo ra sanh tử. “Sanh tử không tiền tế, đó là lời ta nói”, đây là cái quán như huyễn phá tan sanh tử ngay từ căn bản.
Kinh này hay bác bỏ ngoại đạo vì chưa thật chứng Chân Như, có ai không lạc vào ngoại đạo, không sa vào ác kiến có không? Cho nên đừng bỏ qua các lỗi lầm ngoại đạo, vì đó cũng là những lỗi lầm của người tu hành chúng ta.
“Vì các duyên không có, chẳng đã sanh đang sanh các duyên đã chẳng duyên, chẳng sanh chẳng không sanh. Tông ta lìa hữu vô, cũng lìa các nhân duyên, sanh diệt và sở tướng, tất cả đều xa lìa”. Quán sát liên tục như vậy mới có ngày ngộ duy tâm và tiếp tục quán sát để nhập sâu vào duy tâm. Làm sao để lìa hữu vô? Bằng quán như huyễn vậy.
“Chân Như và duy tâm, là chỗ hành các thánh”, nếu chưa thông đạt, thấy rõ Chân Như và duy tâm thì tâm chẳng thể nào “trở lại thanh tịnh”. Không tìm thấy đường về quê nhà thì vẫn tiếp tục lưu lạc trong sanh tử của danh và tướng, có và không.
Tâm thế gian như vậy
Nên chẳng phải duy tâm
Thân, tài, đất: bóng hình
Như mộng, từ tâm sanh.
Tâm tuy thành hai phần
Mà tâm không hai tướng
Như dao chẳng tự cắt
Như ngón chẳng tự chạm.
Như tâm chẳng tự thấy
Việc ấy cũng như vậy
Không có chỗ hình bóng
Tức không y tha khởi.
Tánh vọng kế cũng không
Năm pháp, hai tâm tận
Năng sanh và sở sanh
Đều là tướng tự tâm.
Mật ý nói năng sanh
Mà thật vô tự tánh
Thảy thảy cảnh hình trạng
Nếu do vọng kế sanh
Hư không và sừng thỏ
Lẽ cũng thành cảnh tướng
Vì cảnh từ tâm khởi
Cảnh ấy chẳng (phải) vọng kế.
Nhưng cảnh vọng kế kia
Lìa tâm chẳng thể được
Trong sanh tử vô thủy
Cảnh giới tất chẳng có.
Tâm không có chỗ khởi
Vì sao thành hình bóng?
Nếu không vật có sanh
Sừng thỏ lẽ cũng sanh.
Chẳng thể không vật sanh
Mà khởi ra phân biệt
Như cảnh hiện chẳng có
Thì trước cũng không có.
Vì sao trong không vật
Mà tâm duyên cảnh khởi?
Chân Như, Không, Thật tế
Niết bàn cùng pháp giới
Tất cả pháp bất sanh
Là tánh đệ nhất nghĩa.
Người ngu sa hữu vô
Phân biệt các nhân duyên
Chẳng thể biết các hữu
Không sanh, không tác giả
Vô thủy tâm làm nhân
Duy tâm không chỗ thấy.
“Tâm tuy thành hai phần, mà tâm không hai tướng”, cái mê vọng đầu tiên là không biết rằng “năng sanh và sở sanh, đều là tướng tự tâm”. Sự phân biệt chia cắt này đều do vọng kế rằng có sự sanh ra, “vì sao trong không vật, mà tâm duyên cảnh khởi?” mà không biết rằng “Chân Như, Không, Thật Tế, Niết bàn cùng pháp giới, tất cả pháp bất sanh, là tánh đệ nhất nghĩa”.
Cho nên khi quán mọi cái tưởng là có sanh khởi đều như huyễn bèn trở về Chân Như bất sanh.
‘Vô thủy đã không cảnh
Tâm từ đâu mà sanh?
Không vật mà được sanh
Như nghèo đáng là giàu
Không cảnh mà sanh tâm
Xin Phật nói cho con
Tất cả nếu không nhân
(Thì) không tâm cũng không cảnh’.
Tâm đã không chỗ sanh
Lìa chỗ làm ba cõi
Nhân bình, áo, sừng thảy
Mà nói sừng thỏ không.
Thế nên chẳng nên nói
Không có pháp nhân nhau
Vô nhân hữu nên vô
Vô ấy chẳng thành vô.
Hữu đối vô cũng thế
Xoay chuyển nhân nhau khởi
Nếu y theo ít pháp
Thì có ít pháp khởi.
Là trước có chỗ y
Không nhân mà tự có
Nếu kia riêng có y
Y kia lại có y
Như vậy tức vô cùng.
Cũng không có ít pháp
Như y các cây lá
Hiện thảy thảy tướng huyễn
Chúng sanh cũng như vậy
Y sự thảy thảy hiện
Y nơi lực huyễn sư
Khiến ngu thấy tướng huyễn
Mà nơi các cây lá
Thật không huyễn khá được
Nếu y chỉ nơi sự
Pháp ấy tức liền hoại.
Chỗ thấy đã không hai
Có chút gì phân biệt?
Phân biệt không vọng kế
Phân biệt cũng không có.
Vì phân biệt không có
Không sanh tử Niết bàn
Do không chỗ phân biệt
Phân biệt ắt không khởi.
Thế nào tâm chẳng khởi
Mà có được duy tâm?
Ý sai khác vô lượng
Đều không pháp chân thật.
Không thật, không giải thoát
Cũng không các thế gian
Như người ngu phân biệt
Chỗ thấy ngoài đều không.
Tập khí loạn đục tâm
Tợ bóng hình mà hiện
Các pháp hữu vô thảy
Tất cả đều chẳng sanh.
Chỉ duy tự tâm hiện
Xa lìa khỏi phân biệt
Nói các pháp từ duyên
Vì người ngu, chẳng trí.
Tự tánh tâm giải thoát
Tâm tịnh chỗ thánh trụ.
Trong chỗ tự chứng, không có tánh vọng kế cũng không có y tha khởi, không năng sanh sở sanh, vì tất cả “đều là tướng tự tâm”. Như hình bóng trong gương, như các màu của viên ngọc ma ni đều là tướng như huyễn, sanh mà chẳng sanh, của tấm gương và của viên ngọc ma ni.
Duy tâm là “Chân Như, Không, thật tế, Niết bàn cùng pháp giới, tất cả pháp chẳng sanh, là tánh đệ nhất nghĩa”.
Kinh bác bỏ tất cả mọi hý luận do nhân sanh hay không do nhân sanh, có cảnh hay không có cảnh, hữu vô bốn câu, có hiện hay không hiện, phân biệt y vào đâu… để đưa đến duy tâm: tất cả chỉ là tâm, tâm đã không chỗ sanh, nên không có vật, không có cảnh, không có nhân duyên, không có vọng kế, không có phân biệt, không có sanh tử Niết bàn.
“Tất cả đều chẳng sanh, chỉ duy tự tâm hiện”, tất cả những xuất hiện đều như huyễn, vì chỉ là tự tâm, “như dao chẳng tự cắt, như ngón chẳng tự chạm, vì tâm không hai tướng”.
Và tâm ấy vốn thanh tịnh, thanh tịnh khắp cả không có gì ở ngoài. Tâm này vốn giải thoát nên duy tâm là tất cả vốn giải thoát vì như huyễn. Trong duy tâm này, vọng kế hay phân biệt, khởi hay chẳng khởi, sanh hay chẳng sanh… đều chẳng dính dáng gì đến nó, vì tất cả duy chỉ là tâm. Bậc thánh an trụ trong duy tâm vốn thanh tịnh, vốn giải thoát ấy.
Luận số, thắng, lộ hình
Phạm chí và Tự tại
Đều sa vào vô kiến
Xa lìa nghĩa tịch tĩnh
Vô sanh, vô tự tánh
Lìa cấu, Không, như huyễn.
‘Chư Phật và Phật nay
Vì ai nói như vậy
Người tu hành tâm tịnh
Lìa các kiến suy lường?’
Chư Phật vì họ nói
Ta cũng nói như thế.
‘Nếu tất cả là tâm
Thế gian ở chỗ nào?
Nhân gì thấy đất đai
Chúng sanh có đến đi?’
Như chim bay trong không
Theo phân biệt mà đi
Chúng sanh cũng như vậy
Theo nơi vọng phân biệt.
Bước đi trong tự tâm
Như chim trong hư không
Bóng thân, tài, quốc độ
Phật nói duy tâm khởi.
‘Xin nói bóng duy tâm
Nhân đâu, vì sao khởi?’
Bóng thân, tài, quốc độ
Đều do tập khí chuyển.
Cũng nhân chẳng như lý
Có phân biệt sanh ra
Ngoại cảnh là vọng kế
Tâm duyên cảnh ấy sanh.
Rõ cảnh chỉ là tâm
Phân biệt liền chẳng khởi
Nếu thấy tánh vọng kế
Danh, nghĩa chẳng hòa hợp.
Xa lìa giác, sở giác
Giải thoát các hữu vi
Danh, nghĩa đều lìa bỏ
Đây là pháp chư Phật.
Nếu lìa đó cầu ngộ
Kia không biết tự tha
Nếu thấy được thế gian
Lìa năng giác sở giác.
Bấy giờ ắt chẳng khởi
Phân biệt danh, sở danh
Do thấy được tự tâm
Danh tự vọng tạo diệt.
Chẳng thấy được tự tâm
Bèn khởi phân biệt kia
Bốn uẩn không sắc tướng
Số ấy chẳng thể đắc.
Đại chủng tánh khác danh
Làm sao cọng sanh sắc
Do bởi lìa các tướng
Năng, sở tạo chẳng có.
Nếu sắc tự có tướng
Các uẩn làm sao sanh?
Nếu thấy ra vô tướng
Uẩn, xứ đều lìa bỏ
Bấy giờ tâm cũng lìa
Nếu thấy pháp vô ngã.
Cho căn cảnh sai khác
Sanh ra tám loại thức
Ở trong vô tướng kia
Ba tướng ấy không có.
“Rõ cảnh chỉ là tâm, phân biệt liền chẳng khởi”, đây là “tâm tịnh chỗ thánh trụ”. Chỗ thánh trụ ấy là tất cả chỉ là một tâm, tất cả chỉ là một cảnh.
Tất cả chỉ là tâm, không làm gì có thế gian, thế gian là do hư vọng phân biệt mà có. Năm uẩn chẳng hòa hợp chẳng không hòa hợp, vì như huyễn. Cho nên đi, đứng, ngồi, nằm, sanh sống, hoạt động, suy nghĩ… đều ở trong một tâm hay một cảnh vốn thanh tịnh vì vô sanh. Như chim bay được là bay lượn trong không, chúng sanh đến đi, sống chết đều ở trong một tâm một cảnh này. Sở dĩ thấy có đến đi, lên xuống, thành công thất bại, có cái được tạo tác, có sống chết là do phân biệt hư vọng.
Tất cả đều chỉ là tâm thanh tịnh, thuần túy tâm, một vị tâm, và tâm ấy là vô sanh nên tất cả mọi cái ở trong nó đều vốn tự giải thoát.
Thấy có, thấy có phân biệt, đó đều là do tập khí chuyển. Tập khí phân biệt không còn chuyển – vì vốn chưa từng sanh – thì “rõ cảnh chỉ là tâm, phân biệt không còn khởi”.
Nếu thấy thân tâm, thế giới, chúng sanh chỉ là danh, nghĩa như huyễn, bấy giờ “danh nghĩa đều lìa bỏ, đây là pháp chư Phật”, cảnh giới chư Phật, cảnh giới duy tâm liền hiện tiền trước mắt. Bấy giờ “bước đi trong tự tâm”, tức là bước đi trong Pháp thân, trong Tịnh độ của chư Phật.
Ý duyên A lại da
Khởi chấp ngã, ngã sở
Hai chấp thủ của thức
Rõ biết tức xa lìa
Quán thấy lìa một, khác
Đó là không chỗ động.
Lìa nơi ngã, ngã sở
Hai thứ vọng phân biệt
Vô sanh, không tăng trưởng
Cũng chẳng là nhân (của) thức.
Đã lìa năng, sở tác
Diệt rồi chẳng lại sanh
Thế gian không năng tác
Và lìa năng, sở tướng.
‘Vọng kế và duy tâm
Thế nào xin nói cho’.
Tự tâm hiện thảy thảy
Phân biệt các hình tướng
Chẳng rõ hiện nơi tâm
Vọng nắm cho ngoài tâm
Do không có trí giác
Nên khởi ra vô kiến.
Làm sao nơi tánh có
Mà tâm chẳng sanh bám
Phân biệt chẳng hữu vô
Nên nơi hữu chẳng sanh.
Rõ chỗ thấy duy tâm
Phân biệt liền chẳng khởi
Vì phân biệt không khởi
Chuyển y không chỗ bám.
Che lại bốn tông kia
Cho là pháp có nhân
Đó chỉ là khác danh
Chỗ lập đều không thành.
Nên biết nhân năng tác
Cũng lại chẳng thành lập
Vì ngăn che năng tác
Nói nhân duyên hòa hợp.
Vì ngăn che lỗi thường
Nói duyên là vô thường
Người ngu nói vô thường
Mà thật chẳng sanh diệt.
Chẳng thấy pháp diệt hoại
Mà lại có sở tác
Sao có pháp vô thường
Mà lại có sở sanh?
Trời, người, a tu la
Quỷ, súc sanh, diêm la
Chúng sanh sanh trong đó
Ta nói là sáu nẻo.
Do nghiệp cao, trung, thấp
Ở trong đó thọ sanh
Giữ gìn các thiện pháp
Mà được thắng giải thoát.
Tám thức không nương nhau, vì vô tự tánh, như huyễn. Thấy được như vậy bèn ở trong “không chỗ động”, “vô sanh, không tăng trưởng”.
Tất cả thế gian đều là những hình tướng hiện nơi tâm, chúng chính là tâm vô sanh, thanh tịnh. Khi vọng nắm cho là chúng ở ngoài tâm bèn có tánh vọng kế. Vọng kế phân biệt càng nặng thì càng xuống thấp, do đó có sáu cõi.
‘Phật vì các tỳ kheo
Nói những chỗ thọ sanh
Niệm niệm đều sanh diệt
Xin tuyên thuyết cho con’
Sắc sắc chẳng tạm ngừng
Tâm tâm cũng sanh diệt
Ta vì đệ tử nói
Thọ sanh niệm đổi dời
Trong sắc sắc phân biệt
Sanh diệt cũng như vậy
Phân biệt là chúng sanh
Lìa phân biệt chẳng có.
Ta vì nhân duyên ấy
Nói rằng niệm niệm sanh
Nếu lìa bám nắm sắc
Chẳng sanh cũng chẳng diệt.
Duyên sanh chẳng (phải) duyên sanh
Vô minh, Chân Như thảy
Hai pháp nên có khởi
Không hai tức Chân Như.
Nếu kia duyên phi duyên
Pháp sanh có sai khác
Thường, vô thường… các duyên
Có năng tác, sở tác.
Đó tức Đại Mâu Ni
Cùng chư Phật đã nói
Có năng tác, sở tác
Cùng ngoại đạo không khác.
Ta vì đệ tử nói
Thân là thế gian khổ
Cũng là thế gian tập
Diệt, đạo đều đầy đủ.
Phàm phu vọng phân biệt
Chấp giữ ba tự tánh
Thấy có năng, sở thủ
Pháp thế và xuất thế.
Ta trước quán đối đãi
Nói thủ nơi tự tánh
Nay để che các kiến
Chẳng nên vọng phân biệt.
Tìm lỗi là phi pháp
Cũng khiến tâm chẳng định
Đều do hai thủ khởi
Không hai tức Chân Như.
Nếu vô minh, ái, nghiệp
Mà sanh ra các thức
Tà niệm lại có nhân
Đó là lỗi vô cùng.
Vô trí nói các pháp
Có bốn thứ diệt hoại
Vọng khởi hai phân biệt
Pháp thật lìa hữu vô.
Xa lìa khỏi bốn câu
Cũng lìa khỏi nhị kiến
Phân biệt khởi ra hai
Rõ rồi không sanh lại.
Trong chẳng sanh biết sanh
Trong sanh biết chẳng sanh
Vì pháp kia đồng đẳng
Chẳng nên khởi phân biệt.
Phân biệt sắc đến mức vi tế thì thấy sắc niệm niệm sanh diệt. Nhưng không phân biệt nữa, lìa sự bám nắm sắc thì thấy thực tại duy tâm “chẳng sanh cũng chẳng diệt”, bởi vì “duyên sanh chẳng phải duyên sanh”.
Thực tại không có hai này tức là Chân Như, nếu còn một niệm phân biệt, thức chưa chuyển thành trí, thì thực tại không hai ấy biến thành sanh tử. Muốn thấy và sống trong Chân Như không hai này thì phải lìa hoạt động phân biệt của tâm, ý, ý thức. Một cách để lìa là tin và biết rằng có phân biệt hư vọng gì gì đi nữa thì cũng chẳng thể nào phá hư, chia cắt cái không hai này. Phân biệt chẳng làm gì được thì nó chẳng phải là như huyễn sao?
“Chẳng sanh cũng chẳng diệt, không hai tức Chân Như”.
‘Xin Phật nói cho con
Lý ngăn che hai kiến
Khiến con và chúng sanh
Hằng chẳng sa hữu vô’.
Không lẫn lộn ngoại đạo
Cũng lìa nơi Nhị thừa
Chỗ chư Phật đã chứng
Chỗ Phật tử không lùi.
Nhân giải thoát phi nhân
Đồng nhất tướng vô sanh
Mê nên chấp dị danh
Bậc trí nên thường lìa.
Pháp theo phân biệt sanh
Như vòng tóc, huyễn ảnh
Ngoại đạo vọng phân biệt
Thế từ hai tánh sanh.
Vô sanh cùng Chân Như
Tánh Không cùng chân tế
Chúng khác tên mà nói
Chẳng nên chấp không có.
Như lông có nhiều tên
Tên Đế thích cũng thế
Các pháp cũng như vậy
Chẳng nên chấp không có.
Sắc và Không không khác
Vô sanh cũng như vậy
Chẳng nên chấp là khác
Thành ra lỗi các kiến.
Vì phân biệt tổng, biệt
Cùng với phân biệt khắp
Chấp trước các sự tướng
Dài ngắn vuông tròn thảy.
Tổng phân biệt là tâm
Phân biệt khắp là ý
Phân biệt riêng là thức
Đều lìa tướng năng sở.
Trong pháp ta khởi kiến
Và vô sanh ngoại đạo
Đều là vọng phân biệt
Các lỗi lầm không khác.
Nếu có thể hiểu rõ
Vô sanh của ta nói
Và vô sanh được làm
Người ấy hiểu pháp ta.
Bởi vì phá các kiến
Vô sanh, vô trụ xứ
Khiến biết hai nghĩa này
Nên ta nói vô sanh.
Phật nói pháp vô sanh
Nếu là hữu là vô
Tức đồng với ngoại đạo
Luận vô nhân, bất sanh.
Ta nói duy tâm lượng
Xa lìa khỏi hữu vô
Hoặc sanh hoặc chẳng sanh
Kiến ấy đều nên lìa.
Luận vô nhân bất sanh
Sanh tức chấp tác giả
Tác là trộn các kiến
Vô tức tự nhiên sanh.
“Nhân giải thoát phi nhân, đồng nhất tướng vô sanh”: tham thiền một câu này đủ để đạt đến vô sanh, giải thoát khỏi sanh tử hư vọng vì “phi nhân”. Phi nhân nên như huyễn. Cho nên quán như huyễn thì chứng phi nhân vô sanh này.
Các pháp chẳng phải có, thấy có là chúng sanh. Các pháp chẳng phải không có, thấy không có là hàng Nhị thừa. Vượt khỏi có (hữu), không có (vô) là Như huyễn tam muội của Bồ tát. Chẳng phải có nên nói là huyễn, nhưng chẳng phải hoàn toàn không có gì, không thấy gì nên nói là như huyễn, như mộng.
Thể nhập được tam muội như huyễn này mới thấy vô sanh là Chân Như, là tánh Không, là chân tế, là duy tâm không hai, xa lìa tất cả các kiến. Chẳng sanh tức là sanh, sanh tức là chẳng sanh, Không tức là sắc, sắc tức là Không, đây là sự tự do rốt ráo của Như huyễn tam muội.
‘Phật nói các phương tiện
Chánh kiến, đại nguyện thảy
Tất cả pháp nếu không
Đạo tràng làm sao thành?’
Lìa năng thủ, sở thủ
Chẳng (phải) sanh cũng chẳng (phải) diệt
Chỗ thấy pháp, phi pháp
Đều từ tự tâm khởi.
‘Lời nói của Mâu Ni
Trước sau tự trái nhau
Làm sao nói các pháp
Lại nói là chẳng sanh?
Chúng sanh không thể biết
Xin Phật nói cho con
Được lìa lỗi ngoại đạo
Và nhân điên đảo kia
Xin mong bậc Thắng Thuyết
Nói về sanh và diệt
Đều lìa khỏi hữu vô
Mà chẳng hoại nhân quả.
Thế gian sa nhị biên
Bị các kiến mê lầm
Xin bậc mắt sen xanh
Nói thứ lớp các địa’.
Bám giữ sanh, bất sanh
Chẳng rõ nhân tịch diệt
Đạo tràng vô sở đắc
Ta cũng vô sở thuyết.
Pháp sát na đều không
Vô sanh, vô tự tánh
Chư Phật đã tịnh hai
Có hai tức thành lỗi.
‘Bị ác kiến che phủ
Phân biệt chẳng (phải) Như Lai
Vọng kế ra sanh diệt
Xin nói cho chúng con’.
Tích tập các hý luận
Hòa hợp mà sanh ra
Tùy theo loại hiện tiền
Sắc cảnh đều đầy đủ.
Thấy ra ngoại sắc rồi
Mà khởi lên phân biệt
Nếu hiểu được điều ấy
Bèn thấy nghĩa chân thật.
Nếu lìa nơi đại chủng
Các vật đều chẳng thành
Đại chủng đã duy tâm
Hãy biết không chỗ sanh.
Tâm này cũng chẳng sanh
Tức thuận chủng tánh thánh
Chớ phân biệt phân biệt
Vô phân biệt là trí.
Phân biệt nơi phân biệt
Là hai, chẳng (phải) Niết bàn
Nếu lập tông vô sanh
Tức là hoại huyễn pháp.
Cũng không nhân (mà) khởi huyễn
Tổn giảm tự tông mình
Giống như bóng trong gương
Tuy lìa tánh một, khác
Chỗ thấy chẳng phải không
Tướng sanh cũng như vậy
Như thành Càn, huyễn thảy
Tức đợi nhân duyên có
Các pháp cũng như vậy
Là sanh chẳng (phải) bất sanh.
Tất cả pháp nếu là Không, chẳng phải sanh cũng chẳng phải diệt, như huyễn thì có hoại nhân quả, cơ sở căn bản của đạo Phật, không?
Đức Phật trả lời ở mặt chân đế, chân lý tuyệt đối và tối hậu: “Bám giữ sanh, chẳng sanh, chẳng rõ nhân tịch diệt, đạo tràng không chỗ đắc, ta cũng không chỗ nói”. “Nhân tịch diệt” nên căn, trần, cảnh đều như huyễn như mộng. Nhưng chân lý tuyệt đối và tối hậu ấy không loại bỏ mà bao trùm chân lý tương đối và quy ước, tục đế, là nhân quả. Nếu cho vô sanh là không có gì cả, không thấy gì cả thì rơi vào kiến chấp đoạn diệt. Vô sanh mà có, có nhưng như huyễn: “Nếu lập tông vô sanh, tức là hoại huyễn pháp, không có nhân mà khởi huyễn”.
Nói là như huyễn như mộng, nhưng huyễn mộng ấy với chúng sanh có nhân khác nhau nên quả cũng khác nhau. Bởi vì là huyễn cảnh nhưng mỗi người thấy huyễn cảnh khác nhau, cùng là mộng nhưng có mộng dữ mộng lành. Khác nhau bởi vì sự tích tập tập khí hý luận và nghiệp phân biệt khác nhau.
Tích tập các tập khí hý luận thì có sắc cảnh hiện tiền. Khi đã thấy ngoại sắc bèn khởi lên phân biệt. Phân biệt nơi phân biệt thì tâm càng thêm tâm, cảnh càng thêm cảnh. Đó là cơ chế sanh ra sanh tử. Tu hành là đi ngược lại quá trình sanh thành này bằng cách biết “cảnh không chỗ sanh, tâm này cũng chẳng sanh”. Nếu thấy cảnh có sanh, tâm có sanh thì quán chúng là như huyễn. “Chớ phân biệt phân biệt”, không phân biệt phân biệt, là quán như huyễn. Quán như huyễn là vô phân biệt, khi ấy liền tự nhiên an trụ trong “vô phân biệt là trí”.
Phân biệt thành nhân pháp
Mà khởi hai thứ ngã
Đây chỉ thế tục nói
Người ngu chẳng giác biết.
Do nguyện, tập duyên sanh
Tự lực và tối thắng
Thứ năm, pháp Thanh Văn
Mà có A La Hán.
Cách thời và diệt hoại
Thắng nghĩa và đổi dời
Là bốn thứ vô thường
Ngu phân biệt, chẳng trí
Người ngu sa nhị biên
Đức, trần, tự tánh tác.
Vì thủ tông hữu vô
Chẳng biết nhân giải thoát
Đại chủng trái nghịch nhau
Làm sao khởi sanh sắc?
Chỉ là tánh đại chủng
Không đại chủng tạo sắc.
Lửa thì thiêu hoại sắc
Nước lại làm tiêu hoại
Gió khiến cho tan diệt
Thế nào sắc được sanh?
Sắc uẩn và thức uẩn
Chỉ có hai chẳng năm
Ngoài ra chỉ khác danh
Ta nói kia trái nhau.
Tâm, tâm sở sai khác
Mà khởi ra hiện pháp
Phân tích cùng các sắc
Chỉ tâm, không được tạo.
Xanh trắng… đối đãi nhau
Tác, sở tác cũng vậy.
Sở sanh và tánh Không
Lạnh nóng, tướng sở tướng
Hữu vô thảy, tất cả
Vọng kế, chẳng thành lập.
Tâm, ý cùng sáu thức
Các thức cùng tương ưng
Đều nhân tạng thức sanh
Chẳng một cũng chẳng khác.
Số, Thắng và Lộ hình
Chấp Tự tại mà sanh
Đều sa tông hữu vô
Xa lìa nghĩa tịch tĩnh.
Đại chủng sanh hình tướng
Chẳng phải sanh đại chủng
Ngoại đạo nói đại chủng
Sanh đại chủng và sắc.
Ở ngoài pháp vô sanh
Ngoại đạo chấp tác giả
Y nơi tông hữu vô
Người ngu chẳng rõ biết.
Tướng thanh tịnh chân thật
Cùng ở với đại trí
Chỉ cùng tâm tương ưng
Chẳng hòa hợp ý, thức…
Nếu nghiệp đều sanh sắc
Thì trái nhân các uẩn
Chúng sanh chớ nên chấp
Không có, trụ vô sắc.
Nói sắc là không có
Chúng sanh cũng phải không
Luận vô sắc là đoạn
Các thức lẽ chẳng sanh.
Thức y bốn chỗ trụ
(Nếu) Vô sắc, làm sao thành?
Trong ngoài đã chẳng thành
Thức đáng lẽ chẳng khởi.
Thức chúng sanh nếu không
(Thì) tự nhiên được giải thoát
Đó là luận ngoại đạo
Người vọng kế chẳng biết.
Hoặc có người ưa chấp
Trung ấm có các uẩn
Như sanh cõi vô sắc
Vô sắc làm sao có (các uẩn).
Sắc ở trong vô sắc
Kia chẳng thể thấy được
Vô sắc tức trái tông
Không xe, không người cỡi
Thức do tập khí sanh
Cùng các căn hòa hợp
Tám thức trong sát na
Nắm giữ, chẳng thể đắc.
Nếu các sắc không khởi
(Thì) Các căn chẳng phải căn
Thế nên Thế Tôn nói
Căn, sắc, là sát na.
Đại chủng, sắc, thức, nghiệp đều vô tự tánh, nói chúng sanh nhau thì không phải mà nói chúng không sanh nhau cũng không phải. Đi đến mức sát na thì “tám thức trong sát na, nắm giữ chẳng thể đắc”, nghĩa là “sát na chẳng phải sát na”, ngay đây là giải thoát.
Tất cả đều do tâm tạo. Cho nên tâm thanh tịnh thì tạo ra cảnh thanh tịnh, tâm nhiễm ô thì tạo ra cảnh nhiễm ô. Thanh tịnh của tâm là vô sanh, và vô sanh là sát na chẳng phải sát na: “phân tích cùng các sắc, chỉ tâm, không (có cái gì) được tạo”.
Đại trí là thấy được tướng chân thật thanh tịnh. Đại trí là trí vô phân biệt, trí vô phân biệt là duy tâm vô sanh.
‘Vì sao chẳng rõ sắc
Mà có thức được sanh?
Vì sao thức chẳng sanh
Mà có thọ sanh tử?’
Các căn và căn, cảnh
Bậc thánh rõ nghĩa ấy
Người ngu si vô trí
Vọng chấp thủ theo danh.
Chẳng nên chấp đệ lục (thức)
Có thủ và không thủ
Vì lìa các lỗi lầm
Bậc thánh vô định thuyết.
Các ngoại đạo vô trí
Sợ hãi với đoạn thường
Tưởng hữu vi, vô vi
Cùng ngã không sai khác.
Hoặc chấp ngã, tâm (là) một
Hoặc khác với ý, thức…
Tánh một nắm giữ được
Tánh khác cũng như thế.
Nếu thủ xác định được
Gọi là tâm, tâm sở
Thủ ấy sao không thể
Xác định rõ tánh một?
Có thủ cùng làm nghiệp
Có đắc mà thủ sanh
Như lửa cháy mà thành
Ý nghĩa giống, chẳng giống.
Như khi lửa cháy nhanh
Đốt, bị đốt đều cháy
Vọng thủ ngã cũng vậy
Có đâu vô sở thủ?
Hoặc sanh hoặc chẳng sanh
Tánh tâm thường thanh tịnh
Ngã ngoại đạo thành lập
Sao chẳng có thí dụ?
Rừng rậm thức mê lầm
Vọng kế lìa chân pháp
Vì ưa theo ngã luận
Đuổi tìm theo kia đây.
Chỗ của trí nội chứng
Tướng chân ngã thanh tịnh
Đó tức Như Lai tạng
Chỗ ngoại đạo không biết.
Phân tích nơi các uẩn
Năng thủ và sở thủ
Nếu rõ được tướng ấy
Tức sanh trí chân thật.
Những người ngoại đạo ấy
Trong chỗ A lại da
Cho mạt na là ngã
Chẳng phải Phật nói thế.
Nếu biện rõ điều này
Giải thoát thấy chân đế
Thấy gốc các phiền não
Đoạn trừ ắt thanh tịnh.
Bản tánh tâm thanh tịnh
Chúng sanh mê nắm giữ
Như Lai tạng không dơ
Xa lìa biên, vô biên
Bản thức ở trong uẩn
Như vàng bạc trong quặng
Nếu luyện thanh lọc rồi
Vàng bạc đều hiển hiện.
“Vì sao chẳng rõ sắc, mà có thức được sanh? Vì sao thức chẳng sanh, mà có thọ sanh tử”? Bậc thánh thì thức chẳng sanh, vì an trụ trong “Như Lai tạng không dơ”. Vì không rõ sắc là thức mà chạy theo bèn có thức sanh ra một cách hư giả. Thức và ý Mạt na vốn là trí, vốn là Như Lai tạng thanh tịnh, vốn chẳng sanh, mà không tự biết chạy ra ngoài quên hẳn nguồn gốc của mình bèn có thức nối thức tạo thành sanh tử.
Chỉ vì một niệm ‘bất giác’ quên đi duy tâm mà có sắc, có thức, có thọ sanh tử. Thấy được căn trần thức là duy tâm như huyễn, là Như Lai tạng vô sanh, xưa nay chưa từng có một phân biệt cách hở nào giữa căn trần thức bèn là giải thoát.
Chung quy cũng vì phân biệt chấp thủ mà cắt lìa tướng ra khỏi tánh, nên vốn chưa hề ra khỏi “tướng chân ngã thanh tịnh, đó tức Như Lai tạng” mà vọng lập ra những cắt chia ta, người, chúng sanh, thế giới thành tự đọa đày mình vào sanh tử hư vọng. “Bản tánh tâm thanh tịnh, Như Lai tạng không dơ, xa lìa biên, vô biên” mà chỉ vì “mê nắm giữ” mà thành biên bờ hạn hẹp. Đâu biết rằng chẳng có uẩn, giới, xứ mà chỉ có một tánh vàng, “bản thức ở trong uẩn”, và với người trí bản thức này khiến uẩn cũng biến thành vàng. Ta người, thế giới, chúng sanh chỉ là duy tâm, chỉ duy nhất một tánh vàng. Tất cả là một tánh vàng, phiền não ở đâu?
‘Phật chẳng phải người, uẩn
Chỉ là trí vô lậu
Rõ biết thường tịch tĩnh
Là chỗ ta quay về.
Bản tánh tâm thanh tịnh
Tùy phiền não, ý thảy
Cùng cái ta tương ưng
Xin Phật giải nói cho’.
Tự tánh thanh tịnh tâm
Ý, thức cho là ‘kia’
Bèn khởi tích tập nghiệp
Tạp nhiễm nên thành hai
Ý thảy, ngã, phiền não
Nhiễm ô nơi tịnh tâm
Giống như áo sạch kia
Mà có các dơ nhiễm.
Như áo được lìa dơ
Cũng như vàng khỏi quặng
Áo, vàng đều chẳng hoại
Tâm lìa lỗi cũng thế.
Người vô trí tìm cầu
Trong ống sáo, đàn trống
Mà tìm âm thanh hay
Ngã trong uẩn cũng thế.
Như tìm báu ẩn giấu
Cũng như nước dưới đất
Tuy có, không thể thấy
Chân ngã (trong) uẩn cũng thế.
Hoạt động tâm, tâm sở
Tương ưng các tập uẩn
Vô trí chẳng thể nắm
Ngã trong uẩn cũng vậy.
Như phụ nữ mang thai
Tuy có không thể thấy
Ngã chân thật trong uẩn
Vô trí chẳng thể biết.
Như sức mạnh trong thuốc
Cũng như lửa trong cây
Ngã chân thật trong uẩn
Vô trí chẳng thể biết.
Tánh Không trong các pháp
Ở nơi tánh vô thường
Ngã chân thật trong uẩn
Vô trí chẳng thể biết.
Các địa, tự tại, thông
Quán đảnh, thắng tam muội
Nếu không chân ngã này
Tất cả đều không có.
Có người phá hoại nói
Nếu có hãy chỉ ngã
Người trí nên đáp rằng
Phân biệt (cuả) anh là ngã.
Người nói không (có) chân ngã
Báng pháp, trước hữu vô
Tỳ kheo nên yết ma
Loại bỏ chớ sống chung.
Thuyết chân ngã bừng cháy
Giống như kiếp hỏa khởi
Thiêu rừng rậm vô ngã
Lìa các lỗi ngoại đạo.
Như tô, lạc, thạch mật
Và các thứ dầu thảy
Tất cả đều có vị
Người chưa nếm không biết.
Ở trong thân các uẩn
Năm thứ tìm cầu ngã
Người ngu chẳng thể hiểu
Trí thấy tức giải thoát.
Thí dụ do minh trí
Còn không hiển được tâm
Nghĩa chứa đựng trong đó
Sao có thể rõ biết.
Tướng khác nhau các pháp
Chẳng rõ duy nhất tâm
Người suy lường vọng chấp
Vô nhân và vô khởi.
Tất cả đều duy tâm, duy một “tự tánh thanh tịnh tâm” mà vì ý và thức phân biệt “cho là kia” nên phân thành hai mà tích tập nghiệp. Thấy được trong uẩn, giới, xứ luôn luôn có nền tảng là tánh Không, Như Lai tạng, Phật tánh, ngã chân thật thì các chia cắt phân biệt sẽ hết, “tướng khác nhau các pháp” chỉ là “duy nhất tâm”.
Nếu có người gạn hỏi, nếu có ngã chân thật ấy thì chỉ ra xem, bèn trả lời sự phân biệt hiện thời nơi thức của anh chính là ngã chân thật, sự phân biệt của thức chính là trí vô phân biệt. Thế gì còn gì sự cách biệt sanh tử Niết bàn, phiền não Bồ đề?
Chân ngã ở đây là Ngã trong Thường Lạc Ngã Tịnh của Kinh Đại Bát Niết Bàn, tức là Phật tánh không biến đổi, không thể hủy hoại, như tánh vàng. Chân ngã hay Phật tánh lìa hữu vô là thời kỳ thuyết pháp thứ ba của Đức Phật.
‘Người thiền định quán tâm
Tâm chẳng có thấy tâm
Thấy từ (cái) được thấy sanh
(Cái) được thấy từ đâu khởi’?
Họ ta Ca Chiên Diên
Từ Tịnh Cư Thiên ra
Vì chúng sanh thuyết pháp
Khiến vào thành Niết bàn.
Duyên nơi pháp bổn trụ
Ta và chư Như Lai
Trong ba ngàn cuốn kinh
Nói rộng pháp Niết bàn.
Dục giới và vô sắc
Nơi đó chẳng thành Phật
Cứu cánh thiên sắc giới
Lìa dục đắc Bồ đề.
Cảnh giới chẳng chuyển nhân
Nhân chuyển thành cảnh giới
Người tu kiếm trí bén
Cắt đứt phiền não kia.
Vô ngã làm gì có
Pháp huyễn đâu hữu vô?
Chân Như hiện trước (kẻ) ngu
Làm sao không chân ngã?
Pháp đã làm, chưa làm
Đều không nhân mà khởi
Tất cả trọn vô sanh
Người ngu không thể hiểu.
Năng tác giả chẳng sanh
Sở tác cùng các duyên
Cả hai đều vô sanh
Làm sao tưởng năng tác?
Người vọng kế nói có
Trước sau nhân một thời
Hiển bình, đệ tử thảy
Nói các vật sanh khởi.
Phật chẳng phải hữu vi
Các tướng tốt đầy đủ
Là công đức Luân vương
Đó chẳng gọi Như Lai.
Phật lấy trí làm tướng
Xa lìa khỏi các kiến
Chỗ hành tự nội chứng
Tất cả lỗi đều đoạn.
Điếc mù câm các thứ
Già trẻ, ôm thù oán
Những thứ ấy càng nặng
Đều không phần phạm hạnh.
(Tướng) tùy hảo ẩn là trời
Tướng ẩn là Luân vương
Cả hai bám phóng dật
Chỉ hiện nơi xuất gia.
Sau khi ta diệt độ
Sẽ có Tỳ da sá
Ca na, Lê sa bà
Kiếp tỳ la… xuất hiện.
Sau trăm năm diệt độ
Thuyết của Tỳ da sa
Các luận Bà la đa…
Tiếp có Bán trạch sa.
Kiều vi bà, La ma
Rồi có Mao cuồng vương
Nan đà và Cúc đa
Rồi Miệt lợi xa vương.
Sau đó binh đao khởi
Rồi có thời cực ác
Lúc ấy các thế gian
Chẳng tu hành chánh pháp.
Sau các thời kỳ ấy
Thế gian như bánh (xe) lăn
Mặt trời, lửa hòa hợp
Thiêu cháy cả cõi dục.
Lập lại các cõi trời
Thế gian lại thành tựu
Các vương cùng bốn họ
Các tiên và pháp hóa.
Các Vệ đà, thờ, thí…
Sẽ có pháp ấy hưng
Pháp đàm luận, hý, tiếu
Trường hàng cùng giải thích
‘Tôi nghe như vầy’, thảy
Làm mê lầm thế gian.
Các thứ y thọ nhận
Nếu có thứ chánh sắc
Lấy bùn xanh phân trâu
Nhuộm chúng thành hoại sắc
Tất cả các y phục
Khiến lìa tướng ngoại đạo.
Hiện tướng bậc tu hành
Tướng oai nghiêm chư Phật
Cũng buộc nơi thắt lưng
Lọc nước mà dùng uống.
Lần lượt mà khất thực
Chẳng đến chỗ phi xứ
Sanh nơi trời thắng diệu
Và sanh trong loài người.
Đầy đủ tướng quý báu
Sanh trời và vua người
Vua có bốn thiên hạ
Pháp giáo trụ lâu đời.
Lên cao đến cung trời
Do tham nên thối thất
(Thời) thuần thiện và ba thời
Hai thời và (thời) cực ác
Phật khác ra thời thiện
Thích Ca ra đời ác
Sau khi ta niết bàn
Tất Đạt Đa dòng Thích
Tỳ nữu, Đại tự tại
Các ngoại đạo cùng ra
‘Tôi nghe như vầy’ thảy
Thích sư tử đã nói.
Đàm cổ và tiếu ngữ
Tiên Tỳ dạ sa nói
Sau khi ta niết bàn
Tỳ nữu, Đại tự tại
Họ lại nói như vầy:
Ta tạo tác thế gian
Ta tên Phật ly trần
Họ Ca đa diễn na
Cha tên Thế gian chủ
Mẹ hiệu là Cụ tài
Ta sanh nước Chiêm bà
Tổ phụ trước của ta
Từ dòng họ mặt trăng
Nên hiệu là Nguyệt tạng
Xuất gia tu khổ hạnh
Diễn nói ngàn pháp môn
Thọ ký cho Đại Huệ
Sau đó ta diệt độ.
Đại Huệ truyền Đạt ma
Tiếp truyền Di khư lê
Di khư lê thời ác
Kiếp tận pháp sẽ diệt.
Ca Diếp Câu Lưu Tôn
Câu Na Hàm Mâu Ni
Cùng ta Ly Trần Cấu
Đều ra thời thuần thiện.
Thời thuần thiện dần giảm
Có đạo sư tên Huệ
Thành tựu đại dũng mãnh
Giác ngộ được năm pháp
Chẳng phải hai, ba thời
Cũng chẳng (phải) thời cực ác
Trong thời thuần thiện kia
Hiện thành Đẳng chánh giác
Y tuy chẳng rách nát
Vải từng miếng vá thành
Như lưới đuôi khổng tước
Không có ai chiếm đoạt
Hoặc hai ngón, ba ngón
Cách nhau mà may thành
Nếu làm khác như vậy
Người ngu sanh tham trước.
Chỉ giữ ba cái y
Hằng diệt lửa tham dục
Tắm trong nước trí huệ
Ngày đêm ba thời tu
Như bắn tên thật mạnh
Cái rớt bắn cái khác
Cái trúng cái không trúng
Thiện chẳng thiện cũng vậy.
Chư Phật đều “duyên nơi pháp bổn trụ” mà thuyết pháp để đưa chúng sanh đến pháp bổn trụ là Niết bàn. Bổn trụ Niết bàn là vô sanh, chưa hề có sanh tử phiền não. Bổn trụ Niết bàn là duy tâm như huyễn.
Đoạn này kể lịch sử của chánh pháp và của ngoại đạo. Với bậc thánh thì thịnh suy, hưng phế, mọi sự kiện đều duy tâm nên như huyễn. Do đó mà thoát khỏi thời gian và không gian, thời chánh pháp và thời mạt pháp.
Nếu một sanh được nhiều
Tức có tướng khác biệt
Người thí lẽ như ruộng
Người nhận lẽ như gió.
Nếu một sanh được nhiều
Tất cả không nhân (mà) có
Nhân sở tác diệt hoại
Đó là lập vọng kế.
Nếu vọng kế được lập
Như đèn và hạt giống
Một mà sanh được nhiều
Chỉ tương tợ, chẳng nhiều,
Mè thì chẳng sanh đậu
Lúa chẳng (phải) nhân (của) lúa mì
Đậu nhỏ chẳng (phải) loại bắp
Làm sao một sanh nhiều?
Danh thủ tạo thanh luận
Quảng chủ tạo vương luận
Vọng nói theo thế luận
Sẽ sanh trong Phạm tạng
Ca đa diên tạo kinh
Tiên Thọ bì nói tế (lễ)
Câu lưu tạo thiên văn
Thời ác thế sẽ có.
Các chúng sanh thế gian
Nhờ phước được làm vua
Như pháp điều (phục) tất cả
Giữ gìn cho cõi nước
Thanh nghị và Xích đậu
Trắc tích và Mã hành
Các tiên đại phước ấy
Đời sau sẽ xuất hiện.
Tất đạt đa họ Thích
Bộ đa, Ngũ kế giả
Khẩu lực và Thông huệ
Cũng ra đời vị lai.
Ta ở nơi rừng hoang
Phạm vương đến cho ta
Tấm da nai, cây gậy
Dây lưng, mạn đà la
Bậc đại tu hành này
Sẽ thành Ly cấu tôn
Nói giảng chân giải thoát
Oai tướng của Mâu ni.
Phạm vương và phạm chúng
Các trời và chúng trời
Cho ta áo da nai
Rồi về cung tự tại.
Ta ở giữa rừng cây
Đế thích, Tứ thiên vương
Cho ta y phục tốt
Cùng với bát khất thực.
Đức Phật nói về hoàn cảnh văn hóa, chính trị, xã hội, thời quá khứ, thời hiện tại của ngoài và thời tương lai. Sự tu hành của ngài ảnh hưởng đến toàn bộ vũ trụ, các vua trời và chúng trời đến để cúng dường y phục, các pháp khí. Sự đắc đạo của ngài là sự đắc đạo cho toàn thể vũ trụ này, bởi thể một danh hiệu của ngài là Thiên nhân sư, Thầy của trời và người.
Nếu lập luận chẳng sanh
Nhân ấy sanh lại sanh
Lập vô sanh như thế
Chỉ là nói hư vọng.
Tích tập từ vô thủy
Vô minh là nhân (của) tâm
Sanh diệt mà tương tục
Chỗ vọng kế phân biệt.
Tăng khứ luận (Samkhya) có hai
Thắng tánh và biến dị
Trong thắng có sở tác
Sở tác lẽ tự thành
Thắng tánh cùng với vật
Cầu na thuyết sai khác.
Thảy thảy tác, sở tác
Biến dị chẳng thể đắc
Như thủy ngân thanh tịnh
Bụi dơ không thể nhiễm.
Tạng thức tịnh cũng vậy
Chúng sanh y chỉ vào
Như các thứ rau hôi,
Vị muối và thai tạng.
Chủng tử cũng như thế
Tại sao mà lại sanh?
Tánh một và tánh khác
Cùng, chẳng cùng cũng vậy.
Chẳng sở thủ mà có
Chẳng vô vi, hữu vi
Trong ngựa không tánh trâu
Ngã trong uẩn cũng thế.
Nói hữu vi, vô vi
Trọn đều vô tự tánh
Giáo lý nào cầu ngã
Là ác kiến vọng cầu.
Chẳng rõ nên nói có
Không ngoài chỉ vọng thủ
Ngã ở trong các uẩn
Một, khác đều chẳng thành.
Lỗi sai kia hiển nhiên
Người vọng kế chẳng biết
Như gương nước và mắt
Hiện ra thảy thảy hình
Xa lìa tánh một, khác
Ngã trong uẩn cũng thế
Hành giả tu thiền định
Kiến, đế cùng với đạo.
Siêng tu ba thứ ấy
Giải thoát các ác kiến
Như qua lỗ trên vách
Thấy ánh chớp diệt mau.
Pháp thiên biến cũng vậy
Chớ nên khởi phân biệt
Người ngu tâm mê lầm
Chấp Niết bàn có, không.
Nếu người đắc thánh kiến
Như thật mà hiểu được
Cần biết pháp biến dị
Xa lìa khỏi sanh diệt.
Nếu lìa nơi hữu vô
Và các tướng năng sở
Cần biết pháp biến dị
Xa lìa luận ngoại đạo.
Nếu lập luận chẳng sanh thì do đó thấy sanh lại sanh. Vì sao thế? Bởi vì lập luận ấy được lập ra trên một cái thấy hư vọng là có sanh, rồi nghĩ Niết bàn là chẳng sanh. Luận lập ra trên cái thấy hư vọng ấy nên tiếp tục sanh hư vọng.
Cho vô minh là nhân từ vô thủy của tâm, do đó có sự sanh diệt tương tục, đó cũng là vọng kế phân biệt, vì thật ra vô minh không phải là nhân vì vô minh vô tự tánh.
Chỉ một chữ vô tự tánh vì duy tâm này phá hết tất cả mọi kiến chấp ngoại đạo. Phải thực hành thì dần dần mới thấy rõ ra.
Trong “tạng thức tịnh” thì “biến dị, ngã…” đều bất khả đắc, vì như huyễn, vô sanh. “Chủng tử cũng như thế, tại sao mà lại sanh, tánh một và tánh khác, cùng chẳng cùng cũng vậy”. Tất cả đều như huyễn, tất cả đều vô sanh.
Cũng lìa khỏi danh tướng
Thấy nội ngã cũng diệt
Lạc chư thiên chạm thân
Khổ địa ngục bức thân.
Nếu không trung ấm kia
Các thức chẳng sanh được
Nên biết trong các nẻo
Thảy thảy thân chúng sanh
Thai, noãn, thấp sanh thảy
Đều từ trung ấm sanh
Lìa thánh giáo chánh lý
Diệt dục lầm càng tăng
Là cuồng thuyết ngoại đạo
Người trí không nên nói.
Trước nên biết rõ ngã
Và các thủ phân biệt
Như con (của) người gái đá
Không rõ biết phân biệt.
Ta lìa khỏi nhục nhãn
Dùng thiên nhãn, huệ nhãn
Thấy thân các chúng sanh
Lìa các hành, các uẩn.
Quán thấy trong các hành
Có sắc tốt sắc xấu
Giải thoát, chẳng giải thoát
Có kẻ ở cõi trời
Người thọ thân các nẻo
Chỉ ta có thể rõ.
Vượt chỗ thế gian biết
Chẳng cảnh giới suy lường
Vô ngã mà tâm sanh
Tâm ấy làm sao sanh?
Há chẳng nói tâm sanh
Như sông, đèn, hạt giống
Nếu không vô minh thảy
Tâm thức tức chẳng sanh
Lìa vô minh không thức
Làm sao sanh tương tục?
Chỗ người vọng kế nói
Ba đời và chẳng đời
Thứ năm chẳng thể nói
Chư Phật: biết rõ nó
Chỗ trụ các hành, thủ
Đó là nhân của trí
Chẳng nên nói trí huệ
Mà gọi là các hành.
Vì có nhân duyên ấy
Tức có pháp ấy sanh
Không có riêng tác giả
Đây là lời ta nói.
Gió chẳng thể sanh lửa
Mà khiến lửa bừng cháy
Cũng do gió nên tắt
Làm sao dụ cho ngã?
Chỗ nói hữu, vô vi
Đều lìa nơi các thủ
Sao người ngu phân biệt
Lấy lửa thành lập ngã?
Sức các duyên xoay chuyển
Thế nên sanh được lửa
Nếu phân biệt như lửa
Ngã ấy từ ai sanh?
Vì ý thảy làm nhân
Các uẩn, xứ tích tập
Nhà buôn và vô ngã
Thường cùng tâm mà khởi
Hai cái như mặt trời
Xa lìa năng, sở tác.
Lửa chẳng thể thành lập
Người vọng kế chẳng biết
Chúng sanh, tâm, Niết bàn
Bản tánh thường thanh tịnh.
Vô thủy lỗi tập nhiễm
Không khác như hư không
Các ngoại đạo Tượng ngọa
Các kiến làm tạp nhiễm
Bị ý thức che chướng
Cho lửa là thanh tịnh
Nếu đắc kiến như thật
Bèn đoạn hết phiền não.
Như ở kiến này phá mọi kiến ngã, ngã hữu, ngã vô. Ngã như lửa, như gió, nhân duyên sanh nên vô tự tánh, “vì có nhân duyên ấy, tức có pháp ấy sanh, không có riêng tác giả”. Vì vô tự tánh nên ngã chỉ là danh tướng, vốn tự giải thoát.
Còn cái chân ngã ở đoạn trước? Chân ngã “tự tánh thanh tịnh tâm” này cũng vô tự tánh, vượt ngoài hữu vô. Vì vô tự tánh nó hiện hữu nơi tất cả mọi sự vật, mọi pháp vì tất cả sự vật, pháp đều vô tự tánh. Cái ngã chân thật này “chư Phật biết rõ nó, là chỗ trụ của các hành, thủ. “Đó là nhân của trí, đó là trí huệ, chẳng nên gọi đó là các hành”. Tất cả là duy tâm, tất cả là vô sanh, “nếu không vô minh thảy, tâm thức tức chẳng sanh, lìa vô minh không thức, làm sao sanh tương tục?”
Ngã chân thật ấy là duy tâm, vượt khỏi hữu vô, làm nền tảng phi hữu phi vô cho mọi xuất hiện. Nói cách khác, tất cả tướng là tánh, là bản tánh của tâm, là duy tâm: “Chúng sanh, tâm, Niết bàn; bản tánh thường thanh tịnh”. Tất cả chúng sanh là tâm, tất cả tâm là Niết bàn.
Bỏ rừng rậm Tà dụ
Đến chỗ hành của thánh
Trí, sở tri sai khác
Khác nhau vì phân biệt.
Người vô trí chẳng biết
Nói điều không nên nói
Như ngu chấp gỗ khác
Là chiên đàn, trầm thủy
Vọng kế và thật trí
Hãy biết cũng như vậy.
Ăn xong cầm bát về
Tẩy rửa khiến sạch sẽ
Súc miệng sạch vị dư
Nên tu hành như vậy.
Nếu trong pháp môn đây
Như lý chánh tư duy
Tịnh tín lìa phân biệt
Thành tựu định tối thắng
Lìa chỗ chấp, trong nghĩa
Thành pháp đăng kim quang.
Phân biệt nơi hữu vô
Và các lưới ác kiến
Ba độc thảy đều lìa
Được tay Phật quán đảnh.
Ngoại đạo chấp năng tác
Mê hướng và vô nhân
Nơi duyên khởi kinh hãi
Đoạn diệt, không thánh tánh.
Các quả báo biến khởi
Là các thức cùng ý
Ý từ tạng thức sanh
Thức nương Mạt na khởi.
Tạng thức khởi các tâm
Như biển khởi các sóng
Các tập khí làm nhân
Tùy duyên mà sanh khởi.
Tướng sát na nối nhau
Thủ cảnh giới tự tâm
Thảy thảy các hình tướng
Ý căn thảy thức sanh.
Do ác tập vô thủy
Tợ ngoại cảnh mà sanh
Chỗ thấy chỉ tự tâm
Chẳng phải ngoại đạo hiểu.
Nhân kia mà duyên kia
Mà sanh ra các thức
Thế nên khởi các kiến
Trôi chuyển trong sanh tử.
Các pháp như huyễn mộng
Trăng nước, nắng, thành Càn
Nên biết tất cả pháp
Chỉ là tự phân biệt.
Chánh trí y Chân Như
Mà khởi các tam muội
Thủ Lăng Nghiêm như huyễn
Các sai khác như vậy.
Được nhập vào các địa
Tự tại và thần thông
Thành tựu trí như huyễn
Được chư Phật quán đảnh.
Thấy thế gian hư vọng
Bấy giờ tâm chuyển y
Đắc Sơ Hoan Hỷ địa
Các địa đến Phật địa.
Đã được chuyển y rồi
Như ma ni nhiều màu
Lợi ích các chúng sanh
Ứng hiện như trăng (trong) nước.
Bỏ lìa kiến hữu vô
Và cùng với chẳng cùng
Vượt qua hạnh nhị thừa
Cũng siêu địa thứ bảy.
Pháp hiện chứng tự nội
Địa địa mà tu trị
Xa lìa các ngoại đạo
Nói nó là Đại thừa
Nói pháp môn giải thoát
Như sừng thỏ, ma ni
Bỏ lìa với phân biệt
Lìa tử và biến diệt.
Giáo do lý nên thành
Lý do giáo nên hiển
Phải y giáo lý này
Chớ còn có phân biệt.
Trí và cái được biết không có sai khác và không có phân biệt. Tâm cảnh nhất như, đây là duy tâm. Như viên ngọc ma ni, ngọc và các màu sắc của nó không khác.
Chỉ cần ngay đây lìa phân biệt như huyễn bèn là duy tâm, là “định tối thắng”. Tâm ấy tỏa chiếu muôn hướng mà ánh sáng nào, hiện hình gì cũng chỉ là nó, đây là pháp đăng kim quang, ngọn đèn pháp ánh sáng màu vàng ròng.
“Các quả báo biến khởi” cũng chỉ là sự biến hiện của tám thức, như các sóng khởi mà không lìa đại dương, là một với đại dương. Ở trong đại dương duy tâm thì các quả báo biến khởi đều như huyễn như mộng, chẳng phải của tôi hay của ai, nghiệp báo của đại dương – các sóng – chỉ là trò chơi của đại dương. Chẳng qua do chấp làm của mình, ngoài mình mà thành ra nghiệp, vì “chỗ thấy của tự tâm”, chỉ là đại dương với sóng.
Giải thoát là biết duy tự tâm hiện, “các pháp như huyễn mộng, trăng nước, nắng, thành Càn, nên biết tất cả pháp, chỉ là tự phân biệt”. Khi thật sự lìa phân biệt liền tương ưng với cái vốn không phân biệt là bản tánh tâm thanh tịnh hay là Pháp thân. Đó tức là bước vào Sơ Hoan hỷ địa, chuyển y từ thức phân biệt sang trí vô phân biệt. Từ đây y vào trí vô phân biệt này mà tiến lên các địa, làm sạch các tập khí phân biệt cho đến Phật địa.
Tự tâm là viên ngọc ma ni, chiếu hiện tất cả mọi thân tâm, thế giới chúng sanh như huyễn. Tự tâm này là Thủ Lăng Nghiêm tam muội như huyễn và các tam muội như huyễn khác. Càng ở trong tam muội như huyễn bao nhiêu thì thân tâm, thế giới, chúng sanh như huyễn bấy nhiêu, và chính trong như huyễn duy tâm này mà “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh” là công việc như huyễn của Bồ tát.
Giáo lý của Kinh Lăng Già này là không phân biệt nên thấy như huyễn và thấy như huyễn nên không phân biệt. Không phân biệt là Như Lai tạng hay ánh sáng căn bản, hay ngọn đèn pháp ánh sáng màu vàng ròng. Không phân biệt thì ở trong ánh sáng căn bản của Như Lai tạng, trong đó mà thấy thì các pháp là như huyễn.
Quán như huyễn thì tự nhiên đi sâu vào bản tánh của như huyễn là ánh sáng căn bản của Như Lai tạng. Quán như huyễn thì giải thoát khỏi sanh tử như huyễn, đồng thời an trụ trong bản tánh của sanh tử là ánh sáng căn bản.
Tóm lại, Nền tảng của kinh này là Duy Tâm, hay là Viên thành thật tánh Như Lai tạng tâm hay ánh sáng căn bản của Như Lai tạng. Con đường là an trụ trong ánh sáng căn bản và quán huyễn. An trụ trong ánh sáng căn bản là quán thấy như huyễn và quán thấy như huyễn là an trụ trong ánh sáng căn bản. Con đường này luôn luôn đi trong Nền tảng Như Lai tạng tức là ánh sáng căn bản. Quả là Như Lai tạng hay ánh sáng căn bản.
Nói theo thực hành, cái Thấy là thấy như huyễn và ánh sáng căn bản. Thiền định là thiền quán như huyễn và an trụ trong ánh sáng căn bản. Hạnh là sống trọn vẹn thân tâm trong như huyễn và ánh sáng căn bản. Quả là sự chứng ngộ như huyễn và ánh sáng căn bản.
Hết Kinh.
SHARE:
Ban biên tập website Thiện Tri Thức chúng tôi chân thành cám ơn các trang mạng, các tác giả cùng những cộng tác viên , các bạn đọc đã cho phép chúng tôi trích đăng và gửi bài tới trang nhà chúng tôi. Những ý kiến đóng góp và bài viết xin gửi về email [email protected].
Mong mọi sự tốt lành!
© Bản quyền 2021 THIỆN TRI THỨC | Thiết kế bởi TIGONSYS