SHARE:
Bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại các nghĩa rộng trong Kinh này nên nói bài kệ:
Các pháp không kiên cố
Đều từ phân biệt sanh
Vì phân biệt là không
(Cái) được phân biệt chẳng có.
Do hư vọng phân biệt
Là liền có thức sanh
Tám, chín các thứ thức
Như biển có các sóng.
Tập khí thường tăng trưởng
Bám rễ sâu kiên cố
Tâm theo cảnh giới chuyển
Như nam châm hút sắt.
Chúng sanh thường nương y
Nếu xa lìa suy lường (kế độ)
Và lìa trí, sở tri
Chuyển y đắc giải thoát.
Được như huyễn tam muội
Siêu vượt hết Mười địa
Khi quán thấy tâm vương
Tưởng, thức đều xa lìa.
Bấy giờ tâm chuyển y
Đó tức là thường trụ
Tại nơi Liên hoa cung
Chỗ khởi của huyễn cảnh.
Đã trụ cung ấy rồi
Tự tại không dụng công
Lợi ích các chúng sanh
Như ma ni nhiều sắc.
Các pháp do phân biệt mà có. Như tâm gương sáng, tất cả chỉ là gương sáng, chỉ vì phân biệt mà các hình bóng hiện ra, rồi tiếp tục chạy theo phân biệt các hình bóng mà quên mất tấm gương. Như biển vốn chỉ là biển, một màu một vị, nhưng khi phân biệt khởi lên liền thấy có sóng mà không biết tất cả chỉ là biển nước. Tất cả bóng đều là gương sáng, một bóng cũng là gương sáng, dầu có phân biệt gì thì tất cả cũng chỉ là gương. Tất cả sóng đều là biển, một sóng cũng là biển, dầu có phân biệt biến đổi thế nào tất cả cũng chỉ là biển.
Phân biệt mà không biết chỉ là tập khí phân biệt nên như huyễn, bèn tạo ra sanh tử không có ngày chấm dứt. Không phân biệt, không chạy theo phân biệt thì tất cả duy chỉ một gương sáng, tất cả thức duy chỉ là trí. Có bóng nào chẳng phải là gương, có thức nào chẳng phải là trí.
Như huyễn tam muội là thấy được tâm vương là ánh sáng bổn nguyên, chính tập khí phân biệt chia cắt ánh sáng căn bản thành vô vàn hình tướng. Cho nên trong tâm vương sắc thanh hương vị xúc pháp là như huyễn. Biết được và an trụ như vậy là trụ trong Liên hoa cung tức tâm vương để nhìn ra thấy tất cả đều duy tâm hiện, đều là cảnh huyễn.
Trụ trong Liên hoa cung tức là trụ trong tâm vương thì không dụng công. Đây là Vô công dụng địa của Đệ bát địa. Đến địa này mới thật đắc được Như huyễn tam muội. Lúc ấy như viên ngọc ma ni chiếu ra nhiều màu sắc, thân tâm, thế giới, chúng sanh, tất cả đều là sự chiếu hiện của viên ngọc ma ni, nên không khác với viên ngọc ma ni. Sự chiếu hiện của tâm vương chính là tâm vương. Tất cả duy chỉ là tâm vương.
Không hữu vi, vô vi
Chỉ trừ vọng phân biệt
Người ngu mê chấp thủ
Như gái đá mộng con.
Nên biết cái ta riêng
Uẩn, giới các duyên thảy
Toàn Không, vô tự tánh
Hữu, phi hữu, vô sanh.
Ta dùng phương tiện nói
Mà thật không có tướng
Người ngu vọng chấp thủ
Năng tướng và sở tướng.
Tất cả biết chẳng (phải) biết
Tất cả chẳng (phải) tất cả
Người ngu phân biệt có
Phật không có tự, tha.
Các pháp như huyễn mộng
Vô sanh, vô tự tánh
Vì thảy đều tánh Không
Không có, bất khả đắc.
Ta chỉ nói một tánh
Lìa ngoài vọng suy lường
Tự tánh không có hai
Chỗ hành của các thánh.
Như bốn đại không an
Nơi nơi thấy đom đóm
Thấy ấy đều không có
Thế gian cũng như vậy.
Giống như huyễn hiện ra
Cây cỏ cùng ngói đá
Kia huyễn, không chỗ có
Các pháp cũng như vậy.
Không năng thủ, sở thủ
Không buộc, không bị buộc
Như huyễn, như sóng nắng
Như mộng như mắt nhặm.
Nếu muốn thấy chân thật
Lìa các phân biệt, thủ
Nên tu quán chân thật
Thấy Phật, tất không nghi.
Thấy hữu vô là thấy tướng, đó là cái thấy sai lầm do phân biệt hư vọng. Để thấy cho đúng là phải thấy hữu vô, một khác… đều như huyễn.
Các pháp là vô tự tánh, như huyễn vì vọng phân biệt. Tất cả các pháp là vô tướng, bất khả đắc, vì vô sanh. Vô sanh vì chỉ là tập khí phân biệt mà hư vọng thấy. Cho nên tất cả những cái biết đều chẳng phải biết, và cái tất cả này cũng chẳng có, bởi vì do mắt nhặm tập khí mà biến hiện ra.
“Nên tu quán chân thật”, tức là quán “thế gian cũng như vậy, giống như huyễn hiện ra”. Quán tất cả là huyễn thì chính cái quán ấy “thấy Phật, tất không nghi”.
Tất cả chỉ là một tánh, Viên thành thật tánh, không có duyên khởi tánh huống hồ là vọng kế tánh. Như ánh sáng chỉ là một ánh sáng, có sự phân biệt hư vọng mới chia cắt ánh sáng thành danh tướng.
Ngay đây trước mắt, nếu muốn thấy chân thật, thì lìa phân biệt và chấp thủ trên sự phân biệt ấy. Biết chúng là như huyễn đây là sự quán thấy chân thật tức là thấy Phật.
Mắt tai mũi lưỡi thân ý mà không có thức phân biệt, thì đây là trí. Mắt thấy Phật, tai nghe Phật, mũi ngửi Phật, lưỡi nếm Phật, thân xúc chạm Phật, ý nghĩ Phật.
Thế gian đồng như mộng
Sắc, của cải đều thế
Nếu thấy được như vậy
Bậc giải thoát ở đời.
Ba cõi do tâm khởi
Mê lầm vọng thấy ra
Lìa vọng không thế gian
Biết rồi nhiễm chuyển y.
Chỗ thấy của người ngu
Vọng cho có sanh diệt
Người trí quán như thật
Không sanh cũng không diệt.
Thường hành vô phân biệt
Lìa tâm, pháp của tâm
Trụ trời Sắc cứu cánh
Lìa các chốn lỗi lầm.
Ở đó thành chánh giác
Đủ lực, thông tự tại
Cùng các thắng tam muội
Hiện chuyển, ở đây thành.
Hóa thân vô số ức
Đi khắp tất cả cõi
Khiến người ngu được nghe
Như vang, pháp khó nghĩ.
Xa lìa đầu, giữa, cuối
Cũng lìa khỏi hữu vô
Chẳng nhiều mà hiện nhiều
Bất động mà hiện khắp.
Nói trong thân chúng sanh
Tánh chân bị che khuất
Mê lầm nhiễm huyễn có
Chẳng phải huyễn bị mê.
Do bởi tâm mê lầm
Nên tất cả đều có
Vì chúng ràng buộc nhau.
Các thế gian như vậy
Chỉ có giả đặt bày
Các kiến nước chảy dốc
Thành có pháp và người.
Nếu biết được như vậy
Tức là chuyển sở y
Đích thực làm con ta
Thành tựu tùy thuận pháp.
Cái thấy như thật của người trí là thấy không sanh không diệt. Sở dĩ thấy có sanh có diệt vì thức có sanh có diệt. Nếu hành trí vô phân biệt thì thức phân biệt tiêu dung trong trí, tâm và pháp của tâm, tự nhiên rơi rụng. Bấy giờ trụ trong Liên hoa cung, “bất động mà hiện khắp”.
Chuyển sở y là biết các kiến, các tập khí phân biệt như nước chảy xuống dốc. Sự chuyển động của thức phân biệt này đã tạo ra có tôi, có các pháp, có thế giới, chúng sanh. Tất cả các danh tướng này chỉ là giả đặt bày nên như huyễn. Ngừng các phân biệt giả đặt bày này bằng cách thấy chúng như huyễn là tùy thuận pháp, tùy thuận Pháp thân, tức thì thấy Phật, làm con Phật.
Chỗ người ngu phân biệt
Pháp cứng, ướt, nóng, động
Giả danh không có thật
Cũng không tướng, sở tướng.
Thân hình và các căn
Đều do tám thứ thành
Người ngu vọng kế sắc
Thân mê muội lao tù.
Người ngu vọng phân biệt
Nhân duyên hòa hợp sanh
Chẳng rõ chân thật tướng
Chuyển trôi trong ba cõi.
Các chủng tử trong thức
Hay hiện cảnh giới tâm
Người ngu khởi phân biệt
Vọng kế có hai thủ.
Vô minh, ái và nghiệp
Các tâm y đó sanh
Do đó ta rõ biết
Là y tha khởi tánh.
Vọng phân biệt có vật
Mê lầm chỗ tâm hành
Phân biệt này đều không
Vọng kế mê là có.
Tâm bị các duyên buộc
Sanh khởi thành chúng sanh
Nếu xa lìa các duyên
Ta nói không chỗ thấy.
Đã lìa tất cả duyên
Tự tướng chỗ phân biệt
Trong tâm không còn khởi
Ta gọi không chỗ hành.
Tâm chúng sanh khởi lên
Năng thủ và sở thủ
Chỗ thấy đều vô tướng
Người ngu vọng phân biệt.
Hiển thị A lại da
Là tạng thức thù thắng
Lìa khỏi năng, sở thủ
Ta nói là Chân Như.
Chỉ vì phân biệt từ vi tế đến thô nặng mà có thân tâm, thế giới, chúng sanh. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là do vọng kế mà có. “Nhân duyên hòa hợp sanh” ở đây là nhân duyên hòa hợp của tám thức phân biệt, hay nói vi tế hơn, của các chủng tử phân biệt trong thức.
Các chủng tử tập khí ấy hay hiện cảnh của tâm, người thường không biết đó là tâm hiện, khởi thêm phân biệt thành năng thủ sở thủ. Vô minh, ái và nghiệp là những chủng tử tập khí đã có trong tâm, và các tâm y theo đó, nghĩa là y trên cái méo mó của chính mình, mà sanh. Đây gọi là y tha khởi tánh, nghĩa là y vào nhân duyên hòa hợp của vô minh, ái và nghiệp mà sanh.
Duyên khởi của Kinh Lăng Già không phải là duyên sanh khách quan mà là duyên sanh của tám thức và tập khí chủng tử của chúng. Bởi vì duyên sanh khách quan nào có được cũng phải được kinh nghiệm từ hệ thống tâm thức chủ quan.
Sở dĩ thấy có vật, đó là do mê lầm chỗ tâm hành. Vì có tâm hành nên có vật. Vì tâm bị các duyên buộc nên mới có cảnh giới, chứ chân thật là không chỗ thấy. Vì tất cả các duyên phân biệt nên mới có khởi tâm cảnh, chứ thật ra tất cả là vô sanh, không chỗ hành, như huyễn. Cho nên muốn thấy cái chân thật vô tướng thì hãy lìa phân biệt. Lìa phân biệt tận gốc là thấy chúng như huyễn. Lìa năng thủ sở thủ như huyễn thì ngay trước mắt là Chân Như.
Trong uẩn không có người
Không ngã, không chúng sanh
Sanh chỉ là thức sanh
Diệt cũng chỉ thức diệt.
Như trong tranh cao thấp
Tuy thấy mà chẳng có
Các pháp cũng như vậy
Tuy thấy mà chẳng có.
Như thành Càn thát bà
Như ảo ảnh trời nóng
Chỗ thấy thường như vậy
Trí quán bất khả đắc.
Nhân duyên và thí dụ
Lấy đó mà lập tông
Thành Càn, mộng, vòng lửa
Hơi nóng, ánh nhật, nguyệt.
Ánh lửa, vòng tóc thảy
Lấy đó hiển vô sanh
Đời phân biệt đều không
Mê lầm như huyễn mộng.
Thấy các hữu chẳng sanh
Ba cõi không chỗ nương
Trong ngoài đều như vậy
Thành tựu Vô sanh nhẫn.
Đắc như huyễn tam muội
Cùng với ý sanh thân
Thảy thảy các thần thông
Các lực và tự tại.
Các pháp vốn vô sanh
Không, không có tự tánh
Mê lầm các nhân duyên
Mà cho có sanh diệt.
Người ngu vọng phân biệt
Lấy tâm mà hiện tâm
Và hiện ra ngoại sắc
Mà thật vô sở hữu.
Như định lực quán thấy
Tượng Phật cùng khớp xương
Và phân tích đại chủng
Giả đặt bày thế gian.
Thân, tài và chỗ ở
Ba cái là sở thủ
Ý, thủ cùng phân biệt
Ba cái là năng thủ.
Mê lầm vọng kế trước
Vì phân biệt năng sở
Chỉ theo cảnh, văn tự
Mà không thấy chân thật.
Chân thật là không có ngã không có pháp, đây là vô sanh. “Thấy các hữu chẳng sanh, ba cõi không chỗ nương, trong ngoài đều như vậy, thành tựu Vô sanh nhẫn, đắc Như huyễn tam muội, cùng với ý sanh thân”. Các nhân duyên thí dụ chỉ ra tất cả là như huyễn như mộng nên vô sanh.
Hành giả chỉ cần lấy một câu kệ bốn đoạn mà nghe, tư duy và thiền định hết năm này đến năm khác thì có ngày thấy biết trực tiếp tánh Không nền tảng của tất cả các pháp là gì. Chính tánh Không này khiến cho các pháp được thấy thật sự là như huyễn. Đây là bước vào các địa của Pháp thân tánh Không. Và tiếp tục thiền định cho đến lúc trụ được trong Vô sanh pháp nhẫn, Như huyễn tam muội.
Để có đủ động lực đi đến đó, hành giả phải sử dụng mọi Phật pháp mà mình có được: phát tâm Bồ đề, các lời nguyện, tâm đại bi, các ba la mật, sám hối, hồi hướng, giảng nói cho người…
Hành giả dùng tuệ quán
Các pháp vô tự tánh
Bấy giờ trụ vô tướng
Tất cả đều dừng bặt.
Như lấy mực nguệch ngoạc
Người ngu vọng chấp thủ
Thật không có ba thừa
Người ngu không thể thấy.
Nếu thấy các Thanh Văn
Cùng các Bích chi Phật
Đều biến hóa mà hiện
Của Bồ tát đại bi.
Ba cõi chỉ là tâm
Hai tự tánh phân biệt
Chuyển y lìa nhân pháp
Đây tức là Chân Như.
Nhật, nguyệt, ánh sáng đèn
Đại chủng và ma ni
Tác dụng vô phân biệt
Chư Phật cũng như vậy.
Các pháp như vòng tóc
Xa lìa sanh trụ diệt
Cũng lìa thường, vô thường
Nhiễm tịnh cũng như vậy.
Như bôi thuốc vào mắt
Thấy đất thành sắc vàng
Mà thật trong đất kia
Vốn không có tướng vàng.
Người ngu chẳng như thế
Tâm mê loạn từ xưa
Vọng chấp cho là thật
Như huyễn như ảo ảnh.
Nên quán một chủng tử
Cùng phi chủng đồng ấn
Một chủng tất cả chủng
Gọi là chủng chủng tâm.
Thảy chủng tử là một
Chuyển y là chẳng chủng
Bình đẳng đồng pháp ấn
Thảy đều vô phân biệt.
Thảy thảy các chủng tử
Làm lầm các nẻo sanh
Mọi chấp trước hỗn tạp
Gọi tất cả chủng tử.
Quán tự tánh các pháp
Mê lầm không bỏ sót
Tánh vật vốn vô sanh
Rõ biết tức giải thoát.
Chủng tử là những hạt giống nằm trong A lại da. Nói tổng quát, đó là những hạt giống của phiền não chướng và sở tri chướng. Chỉ cần quán một chủng tử ấy là phi chủng tử, một chủng tử là phi chủng tử thì tất cả chủng tử là phi chủng tử, đều “đồng ấn”, đều “bình đẳng đồng pháp ấn”. Ấn gì? Pháp ấn gì? Ấn tánh Không, ấn như huyễn, ấn vô sanh. Rõ biết tất cả đồng một pháp ấn này thì giải thoát.
Người định quán thế gian
Mọi sắc do tâm khởi
Vô thủy tâm mê lầm
Thật không sắc không tâm.
Như huyễn và thành Càn
Vòng tóc và sóng nắng
Chẳng có mà hiện có
Các pháp cũng như vậy.
Tất cả pháp chẳng sanh
Chỉ mê lầm mà thấy
Vì theo mê vọng sanh
Ngu vọng kế chấp hai.
Do thảy thảy tập khí
Sanh các làn sóng tâm
Khi tập khí kia dứt
Sóng tâm không còn khởi.
Tâm duyên các cảnh khởi
Như tranh nương nơi vách
Không vậy, giữa hư không
Sao chẳng có bức tranh?
Nếu duyên có ít phần
Khiến tâm được sanh khởi
Tâm đã do duyên khởi
Nghĩa duy tâm chẳng thành.
Tánh tâm vốn thanh tịnh
Giống như hư không tịnh
Lấy tâm chấp thủ tâm
Do tập (khí) chẳng khác nhân.
Chấp trước tự tâm hiện
Khiến cho tâm có khởi
Chỗ thấy chẳng ngoài tâm
Thế nên nói duy tâm.
Mọi sắc thấy được là do tâm khởi. Có sắc thấy được và có tâm khởi là do mê lầm, vì “thật không sắc không tâm”, vì “bản tánh của tâm vốn thanh tịnh như hư không”. Cho nên bất kỳ kinh nghiệm thấy, nghe, cảm, biết gì chia đôi năng sở thì đều là “do thảy thảy tập khí khiến sanh các làn sóng tâm” và kinh nghiệm ấy là như huyễn. Nhưng mọi cái khởi dù là mê lầm cho là ở ngoài hay “khi tập khí kia dứt, sóng tâm không còn khởi”, thì cũng là tâm. Tâm khởi hay không khởi cũng duy chỉ là tâm, có phân biệt thương ghét, lấy bỏ đến đâu cũng duy chỉ là tâm. Đây là nghĩa duy tâm.
Nếu cho rằng “tâm duyên các cảnh giới” như vậy là tâm “do duyên khởi” thì “nghĩa duy tâm chẳng thành”. Duy tâm là tâm chẳng duyên các cảnh bên ngoài tâm để khởi, vì chẳng có cảnh nào ở ngoài tâm cả. Duy tâm là tâm tự khởi ra cái gọi là cảnh, mà tâm vốn vô sanh nên sự khởi của tâm cũng là không khởi. Tóm lại, tất cả chỉ là tâm, và không có chỗ nào khác với tâm để có sự khởi cả.
Nếu nghĩ rằng tâm có khởi ra cảnh, và cảnh là do tự tâm hiện, đó là “lấy tâm chấp thủ tâm”, việc này cũng có nhân là tập khí phân biệt mê lầm. Lấy tâm chấp thủ tâm là phân chia tâm ra làm chủ thể và đối tượng, điều này làm hao tán năng lực bổn nguyên của tâm một cách vô ích. Không có gì ở ngoài tâm, kể cả mê lầm phân biệt như huyễn, tất cả chỉ là tâm, đây là nghĩa duy tâm.
Tâm chính là Phật, nên nói cách khác, tất cả chỉ là Phật, không có cái gì khác, không có vô minh, phân biệt, chấp trước… nào khác cả.
Tạng thức gọi là tâm
Nghĩ lường thành là ý
Hay biết các cảnh giới
Đó tức gọi là thức.
Tâm thường là vô ký
Ý đủ hai thứ hành
Hiện tại thức đầy đủ
Các thiện và bất thiện.
Chứng bèn không thời gian
Vượt địa, các cõi nước
Cũng vượt khỏi tâm lượng
Mà trụ quả vô tướng.
Chỗ thấy có và không
Cùng với thảy thảy tướng
Đều là của người ngu
Điên đảo bởi chấp trước.
Trí là lìa phân biệt
Có vật tức trái nhau
Do tâm vốn vô sắc
Nên không có phân biệt.
Các căn giống như huyễn
Cảnh giới đều như mộng
Năng tác cùng sở tác
Tất cả đều chẳng có.
Thế đế tất cả có
Đệ nhất nghĩa tức Không
Tánh các pháp vô tánh
Nói là đệ nhất nghĩa.
Ở trong vô tự tánh
Nhân vì các ngôn thuyết
Mà có các vật khởi
Đó gọi là tục đế.
Nếu không có ngôn thuyết
Cũng không có vật khởi
Trong thế đế không có
Chỉ có lời, không sự.
Pháp hư vọng điên đảo
Mà thật bất khả đắc
Nếu điên đảo mà có
Tức Không, vô tự tánh.
Vì hữu là vô tánh
Các pháp điên đảo kia
Tất cả các cái có
Đều là bất khả đắc.
Ác tập huân nơi thân
Hiện ra thảy thảy tướng
Mê lầm cho ngoài tâm
Vọng thủ các sắc tướng.
Phân biệt (vốn là) vô phân biệt
Phân biệt có thể đoạn
Vô phân biệt bèn thấy
Thật tánh, chứng Chân Không.
Tạng thức hay tâm vừa phân biệt nghĩ lường thì thành ý, rồi phân biệt các cảnh giới của tâm thì thành ra thức. Cứ liên tục vọng động vậy mãi cho nên sanh tử luân hồi được lập ra. Cái vọng động của tâm, ý, thức này là không thật, nên sanh tử luân hồi này là không thật, hư vọng. Nhưng chính cái điên đảo hư vọng này làm mất năng lượng của tâm. Cho nên đem các thức trở lại nguồn của chúng là trí thì đây là thực tại toàn nguyên: “Vô phân biệt bèn thấy, thật tánh chứng Chân Không, chứng bèn không thời gian”.
“Thế đế tất cả có”, tất cả có đều như huyễn. Khi thấy tất cả có đều như huyễn, bèn xưa nay mình vẫn trụ trong “đệ nhất nghĩa tức Không”. Nếu thấy thế đế là như huyễn, thì thế đế này tức là đệ nhất nghĩa đế.
Trí là lìa phân biệt, lìa phân biệt thì trụ ngay trong quả vô tướng, vô phân biệt. Nói trụ ngay là bởi vì quả vô tướng, vô phân biệt này vẫn hằng có trong mọi chỗ mọi thời, còn các tướng các phân biệt chỉ mới hư vọng lập trên nền tảng vô tướng, vô phân biệt này mà thôi.
Thế đế là tất cả có, cái có này là hư vọng điên đảo mà lập ra. Lập ra ở đâu, trong đâu? Lập ra trên nền tảng đệ nhất nghĩa tức Không, vốn hiện hữu xưa nay.
Thực tại là vô tự tánh, là tánh Không, trong đó không có một vật nào, một danh tướng nào. Nhưng thấy có vật, thấy có tướng bởi vì chấp vào ngôn thuyết và danh phân biệt. Không có ngôn thuyết, không có danh, không có động niệm theo ngôn thuyết và danh, thì vĩnh viễn “cũng không có vật khởi”.
Chuyển y là không ngôn thuyết, không phân biệt thì tức thời tục đế chuyển thành đệ nhất nghĩa đế. Khi quán sát sâu sắc tất cả chỉ là tâm nên như huyễn thì biết ngay rằng “phân biệt vốn là vô phân biệt”, sanh tử vốn là Niết bàn.
An trụ trong vô phân biệt, khoảnh khắc nào ở trong vô phân biệt thì khoảnh khắc ấy “thấy thật tánh, chứng tánh Không”.
Vô minh huân nơi tâm
Hiện ra các chúng sanh
Như voi ngựa huyễn thảy
Cây lá tưởng là vàng.
Giống như mắt bệnh lòa
Mê lầm thấy vòng tóc
Người ngu cũng như vậy
Vọng thủ các cảnh giới.
Phân biệt, sở phân biệt
Và người khởi phân biệt
Chuyển, sở chuyển, nhân chuyển
Nhân đó, sáu giải thoát.
Do có vọng kế nên
Không địa, không các đế
Cũng không các cõi nước
Hóa Phật và Nhị thừa.
Tâm khởi tất cả pháp
Tất cả chốn và thân
Tánh tâm thật vô tướng
Không chấp thủ thảy thảy.
Phân biệt mê lầm tướng
Đó gọi y tha khởi
Trong tướng có thêm danh
Đó tức là vọng kế.
Các duyên hòa hợp nhau
Phân biệt thành danh tướng
Thảy đó đều chẳng sanh
Tức là viên thành thật.
Thấy đủ thứ, từ thân tâm đến thế giới, chúng sanh, đều là do tập khí phân biệt huân tập nơi tâm mà hiện ra. Biết các thứ hiện ra đều như huyễn là nhổ dứt được gốc rễ tập khí.
Sự phân biệt, sở phân biệt, người phân biệt, sự chuyển, sở chuyển, nhân chuyển, sáu cái này mà như huyễn tức là sáu giải thoát. Quán như huyễn là chuyển năng lực đã tạo ra vọng kế và y tha khởi về viên thành thật.
Tánh tâm thật vô tướng, dò cho đến tận cùng, đến hết kiếp xem tâm có tướng gì không. Cho nên có tướng có danh đều là như huyễn. Không biết mà mê lầm phân biệt các duyên hòa hợp nhau, đó là y tha khởi. Mê lầm thêm một lớp nữa là phân biệt trên danh, đó là vọng kế hay biến kế sở chấp.
Không phân biệt tức là không có y tha khởi, không có vọng kế, hai tánh này như huyễn, thì đây là viên thành thật xưa nay như vậy.
Mười phương các cõi nước
Chúng sanh, Bồ tát trong
Pháp và Báo thân Phật
Hóa thân và biến hóa
Đều từ Vô Lượng Thọ
Trong Cực Lạc lưu xuất
Ở trong kinh Phương Quảng
Nên biết mật ý thuyết.
Những gì Phật tử nói
Và của Đạo sư nói
Đều là Hóa thân nói
Chẳng phải Thật báo Phật.
Các pháp không có sanh
Cũng chẳng phải chẳng có
Như huyễn cũng như mộng
Như hóa như thành Càn.
Thảy thảy do tâm khởi
Thảy thảy do tâm thoát
Tâm khởi không gì ngoài
Tâm diệt cũng như vậy.
Vì chúng sanh phân biệt
Tướng hư vọng hiện ra
Duy tâm thật không cảnh
Lìa phân biệt, giải thoát.
Do vô thủy tích tập
Phân biệt các hý luận
Huân các ác tập khí
Khởi cảnh hư vọng này.
Các pháp vốn vô sanh
Vì tự tánh vọng kế
Y chỉ nơi duyên khởi
Chúng sanh mê phân biệt.
Phân biệt chẳng tương ưng
Y tha liền thanh tịnh
Chỗ trụ lìa phân biệt
Chuyển y tức Chân Như.
Chớ vọng kế hư vọng
Vọng kế là không thật
Mê lầm vọng phân biệt
Năng, sở thủ đều không.
Phân biệt thấy ngoại cảnh
Là tự tánh vọng kế
Do hư vọng kế này
Tự tánh duyên khởi sanh.
Tà thấy các ngoại cảnh
Không cảnh, chỉ là tâm
Chánh quán sát như lý
Năng sở thủ đều diệt.
Chỗ người ngu phân biệt
Ngoại cảnh thật chẳng có
Tập khí nhiễu loạn tâm
Giống ngoại cảnh đang chuyển.
Đã diệt hai phân biệt
Trí khế hợp Chân Như
Trụ trong không ảnh tượng
Chỗ hành thánh khó bàn.
Tất cả các cõi nước, chúng sanh, Bồ tát, các Báo, Hóa thân Phật, và Pháp đều từ Phật A Di Đà, hay Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, từ Cực Lạc lưu xuất. Đây là mật ý thuyết trong kinh Phương quảng.
Một trong những mật ý của “đều từ trong Cực Lạc lưu xuất” là Như huyễn chính là Cực Lạc. Chứng được như huyễn thì sẽ biết được sự biến hiện như huyễn của tâm là Cực Lạc.
“Các pháp không có sanh, cũng chẳng phải không có, như huyễn cũng như mộng, như hóa như thành Càn, thảy thảy do tâm khởi, thảy thảy do tâm thoát, tâm khởi không gì ngoài, tâm diệt cũng như vậy”. Chỉ một đoạn này mà dùng thiền định và thiền quán miên mật lâu ngày mới chứng ngộ được duy tâm như huyễn là gì.
“Các pháp vốn vô sanh”, chỉ vì phân biệt mà có y tha khởi tánh, rồi phân biệt trên sự phân biệt hư vọng này bèn có vọng kế tánh. Nếu “phân biệt chẳng tương ưng, y tha liền thanh tịnh”. Y tha thanh tịnh thì đây chính là Chân Như, viên thành thật tánh. Chỉ cần “chỗ trụ lìa phân biệt”, biết như huyễn liền lìa, đây là sự chuyển y, mà “chuyển y tức Chân Như”.
Thấy có ngoại cảnh, đó là vì “tập khí nhiễu loạn tâm”. Không phân biệt từ ngoài vào trong thì tập khí hết, bấy giờ “đã diệt hai phân biệt, trí khế hợp Chân Như”.
Nương cha mẹ hòa hợp
Như váng sữa trong bình
A lại da cùng ý
Chất đỏ, trắng tăng trưởng.
Bế thi và trù bào
Các thứ uế nghiệp sanh
Gió nghiệp tăng bốn đại
Sanh ra như quả chín.
Năm và năm cùng năm
Mở ra có chín lỗ
Móng, da, răng, lông đủ
Khi đủ bèn sanh ra.
Sơ sanh như trùng phân
Cũng như người tỉnh ngủ
Mắt mở thấy các sắc
Phân biệt dần tăng trưởng.
Phân biệt đã xong rồi
Các môi răng …hòa hợp
Bắt đầu phát ngôn ngữ
Giống như các thứ chim.
Tùy chúng sanh thích ý
An lập ra Đại thừa
Chẳng phải chỗ ác kiến
Ngoại đạo chẳng thể thọ.
‘Thừa tự chứng bên trong
Chẳng phải chỗ suy lường
Sau khi Phật diệt độ
Ai có thể thọ trì?’
Đại Huệ! Ông nên biết
Sau Thiện Thệ niết bàn
Đời vị lai sẽ có
Người thọ trì pháp ta.
Trong nước Nam Ấn Độ
Tỳ kheo danh đức lớn
Tên hiệu là Long Thọ
Hay phá tông hữu vô.
Trong thế gian hiển rõ
Pháp vô thượng Đại thừa
Đắc Sơ Hoan Hỷ địa
Vãng sanh An lạc quốc.
Nghĩa các duyên sanh khởi
Hữu vô đều không thể
Trong duyên vọng kế vật
Phân biệt thành có, không
Kiến ngoại đạo như vậy
Xa lìa pháp của ta.
Đoạn này giảng về nghiệp phân biệt từ A lại da và ý mạt na từ khi trong bào thai sanh ra. Phân biệt lớn dần trong tâm thức rồi được củng cố thêm bằng ngôn ngữ. Tóm lại, sanh tử là danh tướng phân biệt nên như huyễn. Thoát khỏi sanh tử là thoát khỏi danh tướng phân biệt, thấy chúng là như huyễn.
Cũng trong đoạn này Đức Phật nói đến Bồ tát Long Thọ vị xiển dương tánh Không, nền tảng của Đại thừa. Duyên sanh cho nên vô tự tánh, nên là tánh Không. Ngài Long Thọ đã viết rất nhiều luận để giảng rõ về duyên sanh tánh Không, lập ra Trung đạo lìa khỏi biên kiến hữu vô.
Hệ thống Bát nhã nhấn mạnh đến duyên sanh tánh Không. Ở đây là hệ thống duy tâm nên là như huyễn tánh Không.
Danh tự tất cả pháp
Lưu truyền đã từ lâu
Tập khí xưa và nay
Xoay vần cùng phân biệt.
Nếu không nói ra danh
Thế gian sẽ mê lầm
Để trừ sự lầm lộn
Thế nên lập danh ngôn.
Ngu phân biệt các pháp
Mê lầm theo danh tự
Cùng với các duyên sanh
Là ba thứ phân biệt.
Chấp bất sanh bất diệt
Bản tánh như hư không
Tự tánh vô sở hữu
Đó gọi là tướng vọng kế.
Như huyễn, ảnh, sóng nắng
Bóng gương, mộng, vòng lửa
Như vang, thành Càn thát
Đó là y tha khởi.
Chân Như, Không, bất nhị
Thật tế cùng pháp tánh
Đều không có phân biệt
Ta nói là viên thành
Tâm đi trong ngữ ngôn
Hư vọng sa nhị biên
Huệ phân biệt thật đế
Huệ ấy vô phân biệt.
Hiện nơi bậc trí giả
Nơi người ngu chẳng hiện
Cái hiện nơi trí ấy
Tất cả pháp vô tướng.
Như chuỗi bằng vàng giả
Chẳng vàng ngu tưởng vàng
Các pháp cũng như vậy
Ngoại đạo vọng tưởng ra.
Các pháp không thủy chung
Trụ nơi tướng chân thật
Thế gian không tạo tác (vô tác)
Tưởng lường chẳng thể hiểu.
Các pháp trong quá khứ
Vị lai và hiện tại
Tất cả pháp như vậy
Trọn đều là vô sanh.
Các duyên hòa hợp nhau
Thế nên nói có pháp
Nếu là sự hòa hợp
Chẳng sanh cũng chẳng diệt.
Nhưng các pháp duyên khởi
Một, khác không thể đắc
Nói lược tức là sanh
Nói rộng tức là diệt.
Một là bất sanh Không
Bất sanh Không là thắng
Sanh Không tức diệt hoại.
Chân Như, Không, thật tế
Niết bàn và pháp giới
Thảy thảy ý sanh thân
Ta nói chỉ khác danh.
Vọng kế là tất cả bất sanh bất diệt mà chấp thủ thành ra tướng và danh. Vọng kế này đặt nền trên y tha khởi, mà y tha khởi cũng y trên pháp tánh bất sanh bất diệt này mà cho là thật có duyên khởi, duyên sanh. Cho nên thật thấy y tha khởi là thấy y tha khởi là không thật, như huyễn, như bóng, như vang nên là vô sanh. Viên thành thật là Chân Như, thật tế, pháp tánh, Không… trong đó không có phân biệt của vọng kế và y tha khởi. Cho nên lìa phân biệt thì vọng kế và y tha khởi là Chân Như.
Vô phân biệt là trí huệ. Trí huệ ấy thấy tất cả pháp vô tướng, Chân Như bất sanh bất diệt, sanh tử chưa từng được tạo tác… Chỉ cần không có phân biệt của vọng kế và y tha khởi thì viên thành thật hiện tiền.
Tóm lại quán vọng kế và y tha khởi là như huyễn thì mọi cái trước mắt hoàn lại Chân Như viên thành thật.
Nơi các kinh, luật, luận
Mà khởi phân biệt tịnh
Nếu không rõ vô ngã
Y giáo, chẳng y nghĩa.
Chúng sanh vọng phân biệt
Chỗ thấy như sừng thỏ
Phân biệt tức mê lầm
Như thú khát đuổi nắng.
Do nơi vọng chấp trước
Mà khởi ra phân biệt
Nếu lìa nhân vọng chấp
Phân biệt liền chẳng khởi.
Đại phương quảng rất sâu
Biết các cõi tự tại
Ta vì Phật tử nói
Chẳng vì các Thanh Văn.
Ba cõi Không, vô thường
Xa lìa ngã, ngã sở
Ta vì các Thanh Văn
Nói tổng tướng như vậy.
Chẳng bám tất cả pháp
Tịch tịnh, đi một mình
Nghĩ nhớ quả Bích Chi
Ta vì người đó nói.
Thân là y tha khởi
Mê lầm chẳng tự thấy
Phân biệt ngoài tự tánh
Mà khiến tâm vọng khởi.
Nhờ quả báo, gia trì
Sanh vào trong các loài
Và có được trong mộng
Là bốn thứ thần thông.
Thông được ở trong mộng
Và nhờ oai lực Phật
Do sanh trong các loài
Đều chẳng phải báo đắc.
Tập khí huân nơi tâm
Tợ vật mà ảnh khởi
Phàm ngu chưa thể ngộ
Thế nên nói là sanh.
Theo nơi vọng phân biệt
Chừng nào có ngoại tướng
Khi ấy còn thêm vọng
Chẳng thấy tự tâm mê.
‘Vì sao nói có sanh
Mà không nói chỗ thấy
Không chỗ thấy mà thấy
Vì ai? Tại sao nói?’
Thể tâm tự vốn tịnh
Ý cùng với các thức
Do tập khí thường huân
Mà làm các trược loạn
Tạng thức bỏ lìa thân
Ý bèn tìm các nẽo
Thức mê tợ cảnh giới
Thấy rồi tham nắm giữ.
Chỗ thấy chỉ tự tâm
Ngoại cảnh bất khả đắc
Nếu tu quán như vậy
Xả vọng niệm: Chân Như
Chấp trước là tham bám nắm một cái gì đó tưởng là ở ngoài tâm mình, nhưng nó không có thật, như sừng thỏ, như hoa giữa hư không… Từ sự tham bám nắm này sanh ra phân biệt, sự phân biệt này dựa trên ảo ảnh không thật. Rồi phân biệt lại sanh thêm tâm phân biệt vọng khởi: “Thân là y tha khởi, mê lầm chẳng tự thấy, phân biệt cho là ngoài, mà khiến tâm vọng khởi”. Mê lầm nối tiếp mê lầm, hư vọng chồng thêm hư vọng. Chẳng qua là chẳng biết tâm và sự hoạt động của nó mà có thân tâm, thế giới, chúng sanh.
Đến đây, nhìn sự mê lầm đã thoát ra, đây là trí huệ, rồi nhìn chúng sanh đang tự nhả tơ để trói buộc mình liền đầy đủ đại bi. Trí huệ đến đâu đại bi đến đó, đây là con đường Bồ tát. Đại bi cũng hỗ trợ cho trí huệ, bởi vì đại bi là không phân biệt, gọi là đồng thể đại bi. Đại bi là không thấy có gì khác với mình, tất cả là mình, “chừng nào có ngoại tướng, khi ấy còn thêm vọng”.
“Chỗ thấy chỉ tự tâm, ngoại cảnh bất khả đắc”, đại bi khi là một với trí huệ thì chúng sanh ngoại cảnh bất khả đắc, chúng sanh là như huyễn, do đó như Kinh Đại Bát Nhã nói, “độ chúng sanh như độ hư không”. “Nếu tu quán như vậy, xả vọng niệm: Chân Như”, vọng niệm là gồm cả vọng niệm về chúng sanh trong đó, khi vọng niệm về chúng sanh, phân biệt ta người được xả bỏ thì đây là đại bi. Như vậy Chân Như là trí huệ và đại bi hợp nhất. Trí huệ là thấy tất cả như huyễn. Đại bi là tất cả như huyễn ấy là một, một tâm.
Cảnh giới của các định
Nghiệp và oai lực Phật
Ba điều chẳng thể bàn
Chỗ trí vượt suy nghĩ
Quá khứ, vị lai, ngã
Hư không cùng Niết bàn
Ta tùy thế tục nói
Chân đế lìa văn tự.
Nhị thừa và ngoại đạo
Cùng y chỉ các kiến
Mê lầm nơi duy tâm
Vọng phân biệt ngoại cảnh.
La Hán, Bích Chi Phật
Và giác ngộ của Phật
Chủng tử thành tựu chắc
Mộng thấy Phật quán đảnh.
‘Tâm huyễn đến tịch tĩnh
Sao lại nói hữu vô
Ở đâu, nói cho ai
Vì cớ gì, xin nói’.
Mê lầm nơi duy tâm
Nên nói hữu vô huyễn
Sanh và diệt tương ưng
Tướng, sở tướng bình đẳng.
Phân biệt tên ý thức
Cùng với năm thức thân
Như bóng hình trôi chuyển
Từ tâm khởi chủng tử.
Nếu tâm cùng với ý
Các thức thân chẳng khởi
Tức đắc ý sanh thân
Cũng được đến Phật địa.
Các duyên cùng uẩn giới
Tự tướng của nhân, pháp
Đều tâm giả đặt bày
Như mộng và vòng tóc.
Quán đời như huyễn mộng
Y chỉ trong chân thật
Chân thật lìa các tướng
Cũng lìa nhân tương ưng.
Bậc thánh trong nội chứng
Thường trụ trong vô niệm
Người mê nhân tương ưng
Chấp thế gian là thật.
Tất cả hý luận diệt
Thì mê lầm chẳng sanh
Tùy có mê phân biệt
Tâm si thường hiện khởi.
Sở dĩ có các kiến hý luận là do mê duy tâm. Mê duy tâm thì phân biệt ngoại cảnh các thức đồng khởi ra sanh tử mà không biết chúng là như huyễn.
Rõ duy tâm thì tất cả là do tâm hiện nên như huyễn như mộng, khi ấy an trụ trong chân thật, vốn chưa từng có tướng do tâm hiện. Thấy tất cả tướng là do tâm hiện nên như huyễn, đây là tâm vô niệm, vô phân biệt và tự nhiên an trụ trong đó. Đây là nội chứng của bậc thánh trong Mười Địa.
Các pháp Không, vô tướng
Mà cho thường, vô thường
Là kiến của ‘sanh luận’
Chẳng phải ‘vô sanh luận’.
Một, khác, cùng, chẳng cùng
Tự nhiên và tự tại
Thời, vi trần, thắng tánh
Duyên, phân biệt thế guan.
Thức là giống sanh tử
Có hạt giống, có sanh
Như tranh gắn vào tường
Rõ biết tức liền diệt.
Thí như thấy người huyễn
Mà có sanh tử huyễn
Người ngu chẳng thấy vậy
Si nên khởi buộc, thoát.
Trong ngoài hai thứ pháp
Cùng với nhân duyên kia
Người tu hành quán sát
Đều trụ nơi vô tướng.
Tập khí chẳng lìa tâm
Cũng chẳng cùng với tâm
Tuy bị tập khí buộc
Tâm vẫn không sai khác.
Tâm như áo sắc trắng
Ý, thức tập làm dơ
Tập khí dơ ô nhiễm
Nay tâm không hiển hiện.
Ta nói như hư không
Chẳng hữu cũng chẳng vô
Tạng thức cũng như thế
Hữu vô đều xa lìa.
Ý thức nếu chuyển y
Tâm liền lìa trược loạn
Ta nói tâm là Phật
Giác ngộ tất cả pháp.
Đoạn sạch ba tương tục
Cũng lìa khỏi bốn cú
Hữu vô đều bỏ lìa
Các hữu hằng như huyễn.
Các pháp vốn là Không, vô tướng mà cho là thường hay vô thường, đó là do tập khí chuyển trôi mà hóa hiện. Nhưng người tu hành quán sát thì cảnh, tâm, nhân duyên “đều trụ nơi vô tướng”. Tập khí có, nhưng chẳng dính dáng gì đến tâm, “tập khí chẳng lìa tâm, cũng chẳng cùng với tâm”, vì tập khí là như huyễn. Tập khí có được là lấy từ lực như huyễn của tâm, nên quán như huyễn là lấy lực như huyễn của tâm để tịnh hóa, chuyển y tập khí.
Tạng thức là Như Lai tạng có chứa tập khí. Nhưng tập khí không thật có, nên tạng thức vốn thanh tịnh, là Như Lai tạng. “Tạng thức cũng như thế, hữu vô đều xa lìa”.
Như thế tâm vốn là Phật. Sự biến hiện của tâm cũng là Phật, là Hóa Phật. Duy tâm là tất cả là Phật, không có cái gì ngoài Phật, ngoài giác ngộ của Phật.
Bảy địa trước tâm khởi
Nên có hai tự tánh
Các địa sau, Phật địa
Đều là viên thành thật.
Dục, sắc, vô sắc giới
Và cho đến Niết bàn
Tất cả trong thân này
Đều là cảnh giới tâm.
Tùy còn có chỗ đắc
Thì còn mê lầm khởi
Nếu đã biết tự tâm
Mê lầm liền chẳng sanh.
Ta lập hai thứ pháp
Các tướng và tự chứng
Dùng bốn loại lý thú
Phương tiện để thành tựu.
Thấy thảy thảy danh tướng
Là mê lầm phân biệt
Nếu lìa nơi danh tướng
Tánh tịnh chỗ thánh hành.
Theo năng sở phân biệt
Tức có tướng vọng kế
Nếu lìa phân biệt kia
Tự tánh chỗ thánh hành.
Nếu khi tâm giải thoát
Tức thường hằng chân thật
Chủng tánh là pháp tánh
Chân Như lìa phân biệt.
Vì có tâm thanh tịnh
Mà có tạp nhiễm hiện
Không (có) tịnh tức không (có) nhiễm
Chân tịnh chỗ thánh hành.
Bảy địa trước, từ Sơ địa đến Đệ thất địa, tâm còn nhiễm ô, chưa hoàn toàn thanh tịnh, tâm còn khởi, nên còn vọng kế tánh và duyên khởi tánh. Từ địa thứ tám đắc Như huyễn tam muội và cái công dụng của nó là ý sanh thân, thì tâm không còn khởi, hai tánh đã được tịnh hóa. Đây là vô công dụng địa. Đến Phật địa, mà kinh nói là a tăng kỳ kiếp thứ ba, thì mới thuần túy là Chân Như, viên thành thật tánh, mặc dù Chân Như hay viên thành thật tánh đã bắt đầu hiện hữu từ Sơ địa.
Ba cõi, các địa, cho đến Niết bàn đều ở trong thân tâm này, đều là cảnh giới của tâm. Tất cả cảnh giới phàm thánh nếu còn danh tướng để đắc thì mê lầm còn khởi. Nếu đã biết tự tâm thì mê lầm liền chẳng sanh, danh tướng chẳng thể đắc.
Tánh tịnh, tự tánh, là chỗ hành của thánh. Nhưng nếu còn có cái được cho là tâm thanh tịnh bèn vẫn còn tạp nhiễm hiện. Tu hành cho đến tất cả đều là tâm thanh tịnh, bấy giờ không mảy lông hạt bụi nào là không thanh tịnh, lúc ấy không có gì ngoài tâm thanh tịnh nên ý niệm về tâm thanh tịnh cũng dứt, mà không có tịnh tức cũng không có nhiễm ô.
Thế gian từ duyên sanh
Tăng trưởng do phân biệt
Quán nó như huyễn mộng
Khi ấy tức giải thoát.
Thảy thảy tập khí ác
Hòa hợp cùng với tâm
Chúng sanh thấy ngoại cảnh
Không thấy pháp tánh tâm.
Tánh tâm vốn thanh tịnh
Chẳng sanh các mê lầm
Mê từ ác tập khởi
Thế nên không thấy tâm.
Mê lầm tức là chân
Chân thật không gì ngoài
Không nơi hành, chẳng hành
Không nơi khác mà thấy.
Nếu quán các hữu vi
Xa lìa tướng, sở tướng
Vì lìa các tướng nên
Thấy thế (gian) chỉ tự tâm.
An trụ nơi duy tâm
Chẳng phân biệt ngoại cảnh
Trụ nền tảng Chân Như
Vượt khỏi ngoài tâm lượng.
Nếu vượt khỏi tâm lượng
Cũng vượt đến vô tướng
Đã trụ trong vô tướng
Cũng chẳng thấy Đại thừa.
Hạnh tịch, vô công dụng
Tịnh tu các đại nguyện
Đến trí huệ tối thắng
Vô tướng nên chẳng thấy.
“Thế gian từ duyên sanh, tăng trưởng do phân biệt, quán nó như huyễn mộng, khi ấy tức giải thoát”, quán thấy sanh tử là như huyễn mộng, thì giải thoát. Sự giải thoát không nằm nơi thế gian sanh tử, mà nằm nơi cái thấy của mỗi người.
Chúng sanh thấy tướng nên tạo nghiệp dù thiện dù ác nơi thế gian, và tạo nghiệp thì phải chịu nghiệp quả. Bậc thánh “thấy thế gian duy chỉ là tự tâm, xa lìa tướng, sở tướng”, chỉ thấy Nhất Tâm, ngoài ra không có thế giới, chúng sanh, và nghiệp vì đều như huyễn. Cho nên khi chúng sanh thấy tướng, tạo nghiệp thì chỉ mình chúng sanh nào đó chịu nghiệp quả, còn bậc thánh thì trước sau, trên dưới, xưa nay chỉ thấy một vị Nhất Tâm. Nghiệp và nghiệp quả của chúng sanh, bậc thánh vẫn chỉ thấy là Nhất Tâm, còn ai thấy tướng, tạo tướng thì nấy chịu. Cho nên trong pháp tánh tâm một vị, người thì hưởng Niết bàn, người thì chịu sanh tử.
Ngay lúc này đây mà xa lìa tướng, sở tướng, bèn tức thì thấy tất cả duy chỉ là tự tâm Chân Như. Tu lần lần đến Vô công dụng đạo của địa thứ tám, tịnh tu các đại nguyện cho đến thành Phật. Qua đây chúng ta có thể thấy Phật là Đại Trí, Đại Bi, Đại Nguyện, đầy đủ mọi phương tiện thiện xảo để cứu độ tất cả chúng sanh.
Nên quán chỗ tâm hành
Cũng quán chỗ trí hành
Quán thấy chỗ huệ hành
Nơi tướng, không mê lầm.
Chỗ tâm hành khổ đế
Chỗ trí (jnana) hành là tập
Diệt, đạo và Phật địa
Đều là chỗ huệ (prajna) hành.
Đắc quả và Niết bàn
Cùng với tám thánh đạo
Giác rõ tất cả pháp
Là trí Phật thanh tịnh.
Nhãn căn cùng sắc cảnh
Không, minh cùng tác ý
Nên khiến từ tạng thức
Nhãn thức chúng sanh sanh.
Nắm, người nắm, vật nắm
Danh sự đều không có
Không nhân, vọng phân biệt
Đó là người vô trí.
Danh nghĩa chẳng sanh nhau
Danh, nghĩa riêng cũng thế
Nghĩ nhân, vô nhân sanh
Đều chẳng lìa phân biệt.
Vọng nói trụ thật đế
Tùy kiến đặt bày nói
Một tánh, năm không thành
Bỏ lìa nơi nghĩa đế.
Hý luận với hữu vô
Nên vượt các ma ấy
Vì đã thấy vô ngã
Chẳng vọng cầu các hữu.
Nghĩ tác giả là thường
Chú thuật và tranh luận
Thật đế lìa ngôn thuyết
Mà thấy pháp tịch diệt.
Duy tâm là thấy chỗ tâm hành, chỗ trí hành, cũng là chỗ huệ hành. Nói cách khác, thấy Khổ đế, Tập đế cũng chính là Diệt đế, Đạo đế hay Phật địa. Nói cách khác, sanh tử tức Niết bàn, phiền não tức Bồ đề.
“Danh nghĩa chẳng sanh nhau, danh nghĩa riêng cũng thế, nghĩ nhân, vô nhân sanh, đều chẳng lìa phân biệt”, các pháp chẳng sanh nhau, chẳng tự sanh. Không có sự sanh, vì tất cả đều như huyễn, nên tất cả vô sanh.
Do y vào tạng thức
Mà có ý chuyển động
Vì y vào tâm ý
Mà có các thức sanh.
Chỗ pháp lập hư vọng
Cùng tánh tâm, Chân Như
Tu định quán như thế
Thông đạt tánh duy tâm.
Quán ý cùng sự tướng
Chẳng nghĩ thường, vô thường
Cùng với sanh, chẳng sanh
Chẳng phân biệt hai nghĩa.
Từ nơi A lại da
Sanh khởi ra các thức
Rốt chẳng nơi một nghĩa
Mà sanh hai thứ tâm.
Do thấy được tự tâm
Chẳng không chẳng ngôn thuyết
Nếu chẳng thấy tự tâm
Bị lưới tà kiến trói.
Các duyên không có sanh
Các căn không chỗ có
Không tham, không uẩn, giới
Tất không (có) các hữu vi.
Vốn không các nghiệp báo
Không tạo tác, hữu vi
Nhiễm trước bổn lai không
Không buộc cũng không thoát.
Pháp hữu, vô, vô ký
Pháp, chẳng pháp đều không
Chẳng thời, chẳng Niết bàn
Tánh pháp bất khả đắc.
Chẳng Phật, chẳng chân đế
Chẳng nhân cũng chẳng quả
Chẳng điên đảo, Niết bàn
Chẳng sanh cũng chẳng diệt.
Cũng không mười hai chi
Biên, vô biên chẳng có
Tất cả kiến đều đoạn
Ta nói là duy tâm.
Như huyễn là “các duyên không có sanh, các căn không chỗ có, không tham không uẩn giới, tất không có các hữu vi”.
Tự tâm vượt ngoài có, không. Nó không phải là một tánh Không không có gì, nó là một tánh Không huyễn hữu. Và cũng chẳng phải là có, mà là cái có như huyễn của tánh Không.
Nhị thừa chỉ chứng đến “Sắc tức là Không”. Bồ tát thì không chỉ “sắc tức là Không” mà còn là “Không tức là sắc”. Đoạn trên nói tất cả là Không, và đó là duy tâm.
Phiền não, nghiệp, và thân
Và quả được từ nghiệp
Đều như mộng, hoa đốm
Như thành Càn thát bà.
Bởi vì trụ duy tâm
Các tướng đều bỏ lìa
Bởi vì trụ duy tâm
Có thể thấy đoạn thường.
Niết bàn không các uẩn
Vô ngã cũng vô tướng
Đã nhập vào duy tâm
Chuyển y đắc giải thoát.
Ác tập khí làm nhân
Ngoài hiện ra đất đai
Cùng với các chúng sanh
Duy tâm không thấy gì.
Thân, tài, đất: bóng hình
Tập khí chúng sanh hiện
Tâm chẳng phải hữu vô
Tập khí khiến (tâm) chẳng hiển.
Dơ hiện ở trong tịnh
Tịnh chẳng hiện trong dơ
Như mây che hư không
Tâm chẳng hiện cũng thế.
Vọng kế cho là có
Nơi duyên khởi tức không
Vì vọng kế mê chấp
Duyên khởi không phân biệt.
Chẳng (phải) được tạo đều (là) sắc
Có sắc chẳng được tạo
Mộng, huyễn, nắng, thành Càn
Đều chẳng phải được tạo.
Nếu nơi pháp duyên sanh
Nói thật và chẳng thật
Người ấy quyết định y
Các kiến một khác thảy.
Thấy được tâm, phiền não, nghiệp và nghiệp quả của mình đều chỉ là danh tướng như huyễn bèn tự mình giải thoát vì không có nghiệp. Thấy được thân, phiền não, nghiệp và nghiệp quả của chúng sanh đều chỉ là danh tướng như huyễn thì giải thoát khỏi chúng sanh và nghiệp của chúng sanh. Như huyễn đưa đến hai thứ nhân vô ngã và pháp vô ngã. Quán tất cả như mộng như hoa đốm, đó là trụ duy tâm. Trụ duy tâm thì có được sự giải thoát trọn vẹn này.
Trụ duy tâm giúp cho Bồ tát hạnh khi không từ bỏ thế giới sanh tử thế giới tục đế, thế giới của chân lý quy ước và tương đối: “Bởi vì trụ duy tâm, có thể thấy đoạn thường, (sanh diệt, khổ vui…)”. Bồ tát vẫn thấy thế giới sanh tử, thấy chúng sanh và nghiệp của họ, có điều trụ duy tâm nên thấy chúng như huyễn.
Tóm lại, Bồ tát trụ duy tâm để diệt trừ tập khí xấu ác nơi tâm mình chứ không hoại diệt thế giới và chúng sanh.
Thanh Văn có ba loại:
Nguyện sanh và biến hóa
Và lìa tham, sân, si
Từ chánh pháp sanh ra.
Bồ tát cũng ba loại:
Chưa có các tướng Phật
Nhớ nghĩ đến chúng sanh
Mà hiện hình tướng Phật.
Tâm chúng sanh có hiện
Đều từ tập khí sanh
Thảy thảy các hình ảnh
Như sao, mây, nhật nguyệt.
Nếu đại chủng là có
Bèn có sở tạo sanh
Vì đại chủng vô tánh
Không năng tướng, sở tướng.
Đại chủng là năng tạo
Đất, nước… là sở tạo
Đại chủng vốn vô sanh
Nên không sắc được tạo.
Các sắc giả, thật thảy
Và các huyễn tạo (ra) sắc
Sắc mộng, sắc thành Càn
Sắc nắng là thứ năm.
Nhất xiển đề năm loại
Năm chủng tánh cũng vậy
Năm thừa cùng phi thừa
Niết bàn có sáu loại
Các uẩn hai mươi bốn
Các sắc có tám thứ
Phật có hai mươi bốn
Phật tử có hai loại.
Pháp môn trăm lẻ tám
Thanh Văn có ba loại
Cõi chư Phật chỉ một
Một Phật cũng như thế.
Giải thoát có ba thứ
Tâm lưu chú có bốn
Vô ngã có sáu loại
Sở tri cũng có bốn.
Xa lìa khỏi tác giả
Và lìa lỗi các kiến
Trong tự tánh bất động
Là vô thượng Đại thừa.
Sanh cùng với chẳng sanh
Có tám thứ chín thứ
Một niệm cùng thứ lớp
Chứng đắc tông duy nhất.
Vô sắc giới tám loại
Thiền sai biệt có sáu
Bích Chi, các Phật tử
Xuất ly có bảy loại
Ba cõi hẳn không có
Thường vô thường cũng không
Tạo nghiệp cùng quả báo
Đều như việc trong mộng.
Sự phân biệt rõ ràng các loại, các hạng, các thứ của các cõi và con đường giải thoát giác ngộ cho thấy một Bồ tát không phải là trụ trong diệt tận định, mà là trụ trong duy tâm. Ngoài căn bản trí hay vô phân biệt trí thấu đạt tánh Không một vị, Bồ tát còn có hậu đắc trí hay sai biệt trí thấy rõ những khác biệt của từng tướng thế gian. Có điều hậu đắc trí hay sai biệt trí này đặt nền trên căn bản trí thấy biết như huyễn, nên sai biệt trí mà là vô phân biệt trí, thấy sai biệt mà là như huyễn.
Tóm lại trụ duy tâm là trụ trong Liên Hoa cung Phật tánh, trong “cõi chư Phật chỉ một, một Phật cũng như thế”, trụ trong “tất cả là một”, để nhìn ra mà thấy “một là tất cả”. Cái tất cả này đều như huyễn, như mộng, “ba cõi hẳn không có, thường vô thường cũng không, tạo nghiệp cùng quả báo, đều như việc trong mộng”. Tất cả là một, một tâm duy nhất. Một là tất cả là cái một tâm biến hiện ra tất cả, và cái tất cả này là như huyễn như mộng.
Chư Phật vốn không sanh
Vì Thanh Văn, Phật tử
Tâm thường chẳng thể thấy
Các pháp thảy như huyễn.
Nếu ở tất cả cõi
Từ Đâu Suất nhập thai
Sơ sanh đến xuất gia
Chẳng từ sanh mà sanh.
Vì chúng sanh lưu chuyển
Mà nói đến Niết bàn
Các đế cùng cõi nước
Tùy cơ khiến giác ngộ.
Thế gian, châu, cây, rừng
Vô ngã, ngoại đạo hành
Thiền, thừa, a lại da
Quả, cảnh chẳng nghĩ bàn.
Các loại tinh tú, trăng
Các vua, các loài trời
Loài Càn thát, dạ xoa
Đều nhân nghiệp ái sanh.
Biến dịch tử khó suy
Còn cùng với tập khí
Nếu tử vĩnh viễn tận
Lưới phiền não đã dứt.
Tiền lúa và vàng bạc
Ruộng vườn và tôi tớ
Voi ngựa bò dê thảy
Đều không nên nuôi dưỡng.
Không nằm giường có lỗ
Không đắp bùn nền đất
Bát bằng vàng bạc đồng
Đều không nên giữ dùng.
Bát bằng đất đá sắt
Quả bầu hay pha lê
Đầy đủ lượng để chứa
Tùy bát mà được giữ.
Thường dùng các màu xanh
Màu phân trâu, bùn, lá
Nhuộm lên các mảnh vải
Để thành màu cà sa.
Dao dài bốn ngón tay
Hình như nửa mặt trăng
Dùng để cắt y áo
Người tu hành được giữ.
Chớ học các kỹ thuật
Cũng không được mua bán
Nếu cần nhờ người (thanh) tịnh
Ta nói pháp như vậy.
Thường giữ gìn các căn
Khéo hiểu nghĩa kinh luật
Không chơi với người đời
Đó gọi người tu hành.
Dưới cây và hang núi
Ngoài đồng hay nghĩa địa
Nhà cỏ và đất trống
Người tu hành nên ở.
Nghĩa trang và chỗ khác
Ba y thường theo thân
Nếu khi thiếu y mặc
Người đến cho nên nhận.
Ra du hành khất thực
Ngó phía trước một tầm
Nhiếp niệm mà hành khất
Giống như ong hút hoa.
Chỗ có người tụ tập
Có chúng tỳ kheo ni
Sống chung với thế tục
Đều không nên khất thực.
Các vua và hoàng tử
Đại thần và trưởng giả
Người tu hành khất thực
Đều không nên thân cận.
Nhà có sanh hay chết
Bạn bè, chỗ thân thuộc
Tăng ni ở hỗn tạp
Người tu hành không ăn.
Trong chùa khói không dứt
Thường nấu đủ thứ món
Và cố ý nấu nướng
Người tu hành không ăn.
Hành giả quán thế gian
Năng tướng cùng sở tướng
Đều trọn lìa sanh diệt
Cũng lìa nơi hữu vô.
“Chư Phật vốn vô sanh”, “thế gian, năng sở tướng, đều trọn lìa sanh diệt”. Các bậc giác ngộ ra đời độ sanh đều ở trong như huyễn tam muội, thị hiện như vậy vì chúng sanh mà thôi. Vì ở trong như huyễn tam muội, mọi hình tướng, động tác của cuộc đời bình thường các vị đều thấy đó là niềm vui, niềm vui không do đâu cả, niềm vui của tự do, niềm vui của như huyễn. Như Đức Phật từng cười lớn khi thấy chúng hội ở núi Lăng Già.
Nhưng cũng chớ nghĩ rằng vì như huyễn nên thế gian này chẳng có ý nghĩa gì cả, người tu hành muốn làm gì cũng được. Đây là thái độ chấp đoạn, hư vô chủ nghĩa. Người tu hành cần vì mình vì người mà giữ giới trang nghiêm, không vì chân đế mà coi thường, bỏ qua tục đế. Chính vì không bỏ qua tục đế mà người tu Bồ tát hạnh mới có thể hợp nhất chân đế và tục đế, hợp nhất sanh tử và Niết bàn, phiền não và Bồ đề. Khi ấy được Giới Định Huệ một thể, vì duy tâm vậy.
SHARE:
Ban biên tập website Thiện Tri Thức chúng tôi chân thành cám ơn các trang mạng, các tác giả cùng những cộng tác viên , các bạn đọc đã cho phép chúng tôi trích đăng và gửi bài tới trang nhà chúng tôi. Những ý kiến đóng góp và bài viết xin gửi về email [email protected].
Mong mọi sự tốt lành!
© Bản quyền 2021 THIỆN TRI THỨC | Thiết kế bởi TIGONSYS